CHI HỘI THƯƠNG BINH TINH NGHĨA 282 lê lợi Liên hệ: 0313840668-0934563996           CHI HỘI THƯƠNG BINH TINH NGHĨA 282 lê lợi Liên hệ: 0313840668-0934563996                   CHI HỘI THƯƠNG BINH TINH NGHĨA 282 lê lợi Liên hệ: 0313840668-0934563996                   TIN TỔNGHỢP                     GIÃ SỬ                         QUÂNSỰ             HOANG SA                                        Biển Đông       Thế Giới     Tin trong nước      Sử Việt       UFO      Chuyện Lạ      Gia Đình;

Thứ Năm, 23 tháng 10, 2014

Kỳ 64-65: Mac Arthur – Bành Đức Hoài: Một nỗi niềm hai cảnh ngộ

Bành Đức Hoài và Mao Trạch Đông những năm 1950 - (Ảnh tư liệu từ Internet)
Bành Đức Hoài và Mao Trạch Đông những năm 1950 - (Ảnh tư liệu từ Internet)
Thống tướng Mac Arthur và nguyên soái Bành Đức Hoài đọ sức nhau trên cùng “một mặt trận” (Triều Tiên), có chung “một nỗi niềm” (bị thất sủng) và riêng “hai cảnh ngộ” khác nhau (của mỗi người) vào cuối đời chinh chiến…

Douglas McArthur (1880-1964): Tư lệnh lục quân Mỹ tại Viễn Đông (1941), kiêm Tư lệnh lực lượng đồng minh tại mặt trận Thái Bình Dương - đã ký nhận văn bản đầu hàng vô điều kiện của Nhật trên tàu USS Missouri (9.1945), kết thúc chiến tranh thế giới lần thứ hai.
Bành Đức Hoài (1898-1974): Tư lệnh chí nguyện quân Trung Quốc, kiêm Chỉ huy trưởng liên quân Trung - Triều (1950) - đã đại diện phía Trung Quốc ký hiệp định Bàn Môn Điếm với Mỹ (7.1953) về thỏa thuận ngừng bắn tại Triều Tiên.
Mc Arthur bị tổng thống Truman bãi nhiệm năm 1951 (tại mặt trận Triều Tiên) và Bành Đức Hoài bị chủ tịch Mao Trạch Đông cách chức năm 1959 (tại hội nghị Lư Sơn).
Về lại Mỹ, Mc Arthur vẫn xuất hiện trên diễn đàn Quốc hội, được tiếp tục bảo lưu ý kiến của mình về đối sách châu Á và lên tiếng chỉ trích mạnh mẽ nguyên thủ quốc gia đang tại nhiệm là tổng thống Truman. Ông sống 13 năm cuối đời với phong thái hào hoa.
Ở Trung Quốc, Bành Đức Hoài sau ngày bị cách chức, phải sống 15 năm dưới chế độ giám sát đặc biệt, bị cách ly, rồi biệt giam đến chết.
Bành Đức Hoài: “Khắc tinh” của tướng Mc Arthur
Liên quân Bành Đức Hoài sau hơn hai tháng mở “chiến dịch mùa đông” đã đẩy lùi liên quân Mc Arthur về phía nam vĩ tuyến 38 và làm chủ thủ đô Seoul của Hàn Quốc lần thứ hai 4.1.1951 (lần thứ nhất do Kim Nhật Thành đánh chiếm 28.6.1950).
Hơn một tuần sau (13.1.1951), Ủy ban chính trị Liên Hiệp Quốc đề nghị các bên tham chiến ngồi lại để thương lượng ngưng bắn, tiến hành bầu cử thống nhất hai miền Nam - Bắc Triều Tiên. Nhưng Stalin không đồng ý, tác động Mao Trạch Đông tiếp tục viện Triều đánh Mỹ, nên Chu Ân Lai lên tiếng cự tuyệt ngưng bắn.
Cuộc chiến lại kéo dài, để lộ yếu điểm ở “cuối đường hành lang” tiếp vận của liên quân Trung - Triều (đang đóng Seoul). Vì Seoul nằm quá xa hậu phương chiến lược thiết lập tận vùng sông Áp Lục nên nhịp độ vận chuyển lương thực, đạn dược và các trang bị quân đội giảm xuống. Ngược lại, hoạt động liên tục và hiệu quả của không quân Mỹ lại tăng lên, đánh hỏng các tuyến đường tàu và các nút “yết hầu” đường bộ từ Áp Lục đến Seoul. Vận chuyển tiếp liệu từ Trung Quốc đến chiến trường phải nghiêng về ban đêm (để tránh máy bay Mỹ oanh kích tập trung vào ban ngày) dẫn đến tình trạng chậm trễ, đáp ứng ở mức thấp hơn nhiều so với yêu cầu của mặt trận miền Nam. Trong điều kiện đó, liên quân Trung - Triều phải dừng lại Seoul, không tiến sâu hơn vào lãnh thổ Hàn Quốc được. Tất nhiên, họ phải bỏ trống “vùng chiến thuật” trước mặt mình, ở phía Nam, để tướng Mc Arthur dễ dàng đưa quân tới...
Mc Arthur và tướng Matthew Ridgway (thay tướng Walker chết tại mặt trận) - tư lệnh Quân đoàn 8 - mở chiến dịch tràn qua các “vùng bỏ trống” của liên quân Trung - Triều. Dựa ưu thế về hỏa lực bộ binh, được không quân yểm trợ, liên quân Mỹ - LHQ và Hàn Quốc phản công tái chiếm Seoul ngày 14.3.1951. Đây là lần thứ tư trong vòng chưa đầy một năm (6.1950 đến 3.1951) Seoul bị tàn phá nặng nề bởi các đợt giao tranh giành quyền làm chủ thủ đô.
Tuy chiếm Seoul, Mc Arthur vẫn nhận định thế trận sẽ kéo dài, thương vong sẽ tăng cao. Mao Trạch Đông lại không ngừng tăng quân, luôn phá vỡ thế “cân bằng lực lượng” để tạo áp lực tâm lý, có nguy cơ làm giảm sút tinh thần chiến đấu của liên quân Mỹ - LHQ.
Đáp lại, Mc Arthur lên tiếng với giới truyền thông sẽ đánh bom các trung tâm công nghiệp và khu thương mại trọng điểm ở Trung Quốc để triệt phá nền kinh tế của nước này nếu Mao Trạch Đông vẫn tiếp tục viện binh cho Kim Nhật Thành. Ông cũng cảnh báo về khả năng phải dùng đến bom nguyên tử để kết thúc cuộc chiến Triều Tiên (như ở Nhật).
Những tuyên bố đó làm tổng thống Mỹ Truman phiền lòng vì đi ngược với chủ trương lúc đó của ông ta. Truman có bàn đến kế hoạch đánh bom nguyên tử xuống Trung Quốc, song chỉ hạn chế thông tin trong vòng nội bộ. Truman cũng chưa muốn tấn công thẳng Trung Quốc bằng không quân Mỹ. Ông lo ngại thế giới sẽ phản ứng vì những lời đe dọa mở rộng chiến tranh và sử dụng vũ khí hạt nhân của Mc Arthur. Cuối cùng Truman quyết định cách chức Mc Arthur ngày 11.4.1951 vì tội “bất tuân mệnh lệnh” và triệu hồi Arthur về Mỹ.
Rời mặt trận, Mc Arthur đáp xuống sân bay San Francisco đang có hơn 500.000 người ngưỡng mộ chờ đón. Đến New York, hàng mấy triệu dân chúng đổ ra đường hoan nghênh ông và tỏ thái độ không đồng tình với tổng thống Truman. Ông cũng được lưỡng viện Quốc hội Mỹ vỗ tay tán thưởng nhiều lần khi ông đang đọc bài điều trần, với đoạn cuối: “Người lính già không bao giờ chết, họ chỉ tàn phai theo tháng năm”. Và giờ đây, giống với người lính già trong câu hát ấy, tôi đang khép lại cánh cửa của một đời chinh chiến và đón nhận tàn phai - và người lính già này, được Thượng đế soi sáng để thấy rõ bổn phận của mình - đã gắng sức thực hiện nhiệm vụ được giao với tất cả tinh thần trách nhiệm. Chào tạm biệt. (“Old soldiers never die, they just fade aways”. And like the old soldier of that ballad I now close my military career and just fade aways, and old soldier who tried to do his duty as God gave him the light to see that duty. Goodbye!).

Tướng MacArthur ký nhận lời đầu hàng vô điều kiện của Nhật Bản trên chiếc tàu USS Missouri trong Thế chiến thứ hai trước khi vào cuộc chiến với Bành Đức Hoài tại Triều Tiên - Ảnh: US Navy
So sánh hai cảnh ngộ của hai danh tướng Mc Arthur và Bành Đức Hoài sau ngày bị thất sủng, một công trình biên soạn xuất bản tại Trung Quốc gần đây với tác giả là cán bộ nghiên cứu và giảng dạy Học viện quân sự cấp cao và Đại học Quốc phòng Trung Quốc đã nhận định:  
“Mc Arthur cũng từng va chạm, tranh cãi kịch liệt với tổng thống Truman, và trên tiền tuyến Triều Tiên, ông đã công khai phê bình chính sách châu Á của đương kim tổng thống Mỹ (…) Sau khi (từ mặt trận Triều Tiên) về Mỹ, ông đã thuyết trình trước Quốc hội và khắp nơi trong cả nước phê phán chính sách châu Á của Truman (…) Cảnh ngộ khác nhau trong những năm cuối đời của thống tướng Mỹ (Mc Arthur) và nguyên soái Trung Quốc (Bành Đức Hoài) đã phản ánh hai thể chế chính trị, hai truyền thống lịch sử, hai bối cảnh văn hóa khác nhau”.
Tám năm sau ngày “người lính già không bao giờ chết Mc Arthur” đọc bài điều trần trước Quốc hội, đến lượt đối thủ của ông “bên kia chiến tuyến” là nguyên soái Bành Đức Hoài bị cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và bắt đầu bước vào chặng đời lao đao, điêu đứng từ “phiên tòa không tuyên bố” trên núi Lư Sơn. 
Mao Trạch Đông mở “phiên tòa không tuyên bố"
Sau sự kiện “mười ngón tay” nhúng chàm (xem Kỳ 63), Mao lùi một bước, thừa nhận Đại tiến vọt không chỉ sai “1 ngón”, mà đến “3 ngón” có vấn đề. Tuy vậy, Mao khẳng định “7 ngón” còn lại vẫn giữ tỷ lệ “tuyệt vời”.
“Bành đại tướng quân” không phục, chỉ trích Mao “chưa thực sự cầu thị”, nên tại Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng trên núi Lư Sơn (khai mạc 2.7.1959), đã viết thư gởi Mao Trạch Đông, thẳng thắn nhận xét: 1. Chỉ đạo của Mao về sản xuất gang thép là “phiến diện nghiêm trọng”. 2. Thiết lập công xã nhân dân và bếp ăn tập thể cũng quá hấp tấp “chỉ muốn một bước lên chủ nghĩa cộng sản”, gây thiệt hại quốc dân. 3. Dung dưỡng thói phóng đại, thổi phồng những “kỳ tích tưởng tượng” lên mặt báo v.v...(thư gởi 14.7).
Mao đọc xong, cho in nhiều bản, phát rộng rãi đến tất cả các đại biểu để chuẩn bị “có ý kiến”,khuyến khích “nói thẳng, nói thật”. Sau hậu trường, Mao ngầm chỉ đạo sát phạt Bành nguyên soái, dựng lên tội “chống đảng, chống Mao” (16.7).
Dầu chủ tịch nước Lưu Thiếu Kỳ và thủ tướng Chu Ân Lai cùng một số đại biểu bênh vực Bành Đức Hoài, Mao vẫn dùng quyền lực của mình phủ nhận, lái các phát biểu vào quỹ đạo khác, bức hại Bành. Người ủng hộ Bành nguyên soái bị chụp mũ “tập đoàn phản đảng”, như:1. Trương Văn Thiên (đòi hỏi phải cấp thiết xây đắp nền móng dân chủ trong môi trường sinh hoạt đảng). 2. Chu Tiểu Châu - Bí thư thứ nhất tỉnh ủy Hồ Nam (vẫn xây đủ 50.000 lò cao nhỏ để nấu thép theo chủ trương của Mao, nhưng mật lệnh các địa phương chỉ “nổi lửa” 30.000 lò, giúp dân chúng trong tỉnh giảm bớt tổn hại). 3. Hoàng Khắc Thành - Tổng tham mưu trưởng (bị Mao nghi ngờ thuộc vây cánh của Bộ trưởng Quốc phòng Bành Đức Hoài).
Mao triệu tập phiên họp toàn thể, lật bài ngữa nói: Bành đối với Mao bao năm qua “3 phần hợp tác, 7 phần không hợp tác” và ra lệnh Uông Đông Hưng chỉ huy lực lượng bảo vệ cấm Bành Đức Hoài (và Trương Văn Thiên, Hoàng Khắc Thành, Chu Tiểu Châu) không được đi vào nơi ở của Mao, không tự tiện xuống núi bằng ô tô, không tụ tập một chỗ trò chuyện với nhau. Máy bay trong vùng (đang mở hội nghị) không cất cánh khỏi sân bay nếu chưa có lệnh Mao (27.7).
Cuối hội nghị, theo bệnh sùng bái cá nhân và đường mòn đảng trị, hầu hết đại biểu ngã theo Mao, lên tiếng phụ họa tấn công, đả kích, phê bình những “sai lầm” của Bành Đức Hoài và ca ngợi Đại tiến vọt! Một ít vị như hai nguyên soái Chu Đức, Lưu Bá Thừa giữ im lặng (sau này bị Mao cô lập). Kết cuộc, hội nghị thông qua nghị quyết (tuyên án sau “phiên tòa không tuyên bố” do Mao chủ trì) - đưa Bành nguyên soái ra khỏi cương vị công tác (16.8).
Theo chỉ định của Mao, ngày 30.9.1959 Bành Đức Hoài phải rời khỏi nhà lầu Vĩnh Phúc ở Trung Nam Hải (nơi ông sống 7 năm) để chuyển về vườn nhà họ Ngô phía Tây thành phố Bắc Kinh. Trước lúc ra đi, Bành Đức Hoài phải “trả lại bộ lễ phục nguyên soái” cho Mao và Quân ủy trung ương - bỗng chốc trở thành thường dân tay trắng.
Đến thời “cách mạng văn hóa”, Bành Đức Hoài bị quy kết: “tên tư bản lớn nhất trong quân đội”,có hành vi “phạm tội chống đảng, chống Mao chủ tịch tại hội nghị Lư Sơn 1959” và âm mưu“tấn công bộ tư lệnh của giai cấp vô sản”. Từ “cáo trạng” trên, Tổ chuyên án do Giang Thanh và Khang Sinh (cố vấn đặc biệt của Giang Thanh) đề xuất nâng mức án cao hơn: “mãi mãi khai trừ khỏi đảng, phạt tù chung thân và tước bỏ mọi quyền lợi công dân suốt đời”. Vậy là ngay cả làm “dân thường” Bành nguyên soái cũng không được phép (La Nguyên Sinh - Giờ phút cuối cùng của 9 vị nguyên soái Trung Quốc, sđd. ở Kỳ 4, tr. 110). Ông không được tự do ngôn luận, cấm tự do đi lại và chết lặng lẽ cô độc, không một nấm mồ.  (còn nữa).
Giao Hưởng

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét