CHI HỘI THƯƠNG BINH TINH NGHĨA 282 lê lợi Liên hệ: 0313840668-0934563996           CHI HỘI THƯƠNG BINH TINH NGHĨA 282 lê lợi Liên hệ: 0313840668-0934563996                   CHI HỘI THƯƠNG BINH TINH NGHĨA 282 lê lợi Liên hệ: 0313840668-0934563996                   TIN TỔNGHỢP                     GIÃ SỬ                         QUÂNSỰ             HOANG SA                                        Biển Đông       Thế Giới     Tin trong nước      Sử Việt       UFO      Chuyện Lạ      Gia Đình;

Thứ Ba, 9 tháng 7, 2013

Ông vua hoang dâm mưu giết bề tôi để cướp vợ

Mạc Mậu Hợp vì mải mê ăn chơi, không nghe lời khuyên chính đáng của các quần thân nên đã khiến triều đình ngày càng suy yếu. Âm mưu giết tướng Bùi Văn Khuê để cướp vợ của vị vua ham chơi này như một đòn đau mà chính Mạc Mậu Hợp tự giáng vào mình, khiến nhà Mạc chính thức suy vong.

Lên ngôi năm 2 tuổi

Mạc Mậu Hợp là vị vua thứ 5 của nhà Mạc thời Nam Bắc triều trong lịch sử Việt Nam.

Ông sinh năm 1560 và là con trưởng của hoàng đế Mạc Tuyên Tông tại Cao Đôi, huyện Bình Hà, nay là thôn Long Động, xã Nam Tân, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương, Việt Nam.

Do vua Mạc Tuyên Tông bị bệnh đậu mùa mất sớm nên khi Mạc Mậu Hợp mới lên 2 tuổi đã được Khiêm vương Mạc Kính Điển là quan phụ chính đưa lên ngôi. Mạc Mậu Hợp lên ngôi vào tháng 1/1562, lấy hiệu là Thuần Phúc thứ nhất.

Tuy nhiên, trên thực tế, mọi công việc trong triều đình lúc đó đều do Mạc Kính Điển và Mạc Đôn Nhượng nắm giữ.

Trong thời gian này, lợi dụng Mạc Phúc Nguyên mất, con nối ngôi còn thơ dại, trong khi quan phụ chính là Mạc Kính Điển cũng đã cao tuổi nên phía quân Lê – Trịnh liên tiếp mở những cuộc tấn công vào các vùng Trường Yên, Yên Sơn Nam. Quan phụ chính Mạc Kính Điển lại phải thân chinh đốc binh mã chống Lê – Trịnh.

Mạc Kính Điển đã tổ chức những trận đánh thọc sâu vào Thanh Hoa buộc thái sư phụ chính của Nam triều là Trịnh Kiểm phải lui quân về giữ Tây Đô, Thanh Hoá.

Đến tháng 9 năm 1566, Trịnh Kiểm lại xuất quân đánh vào vùng Tây Nam. Tháng 7 năm 1567, khi Trịnh Kiểm đánh vào vùng Sơn Nam cướp thóc lúa bị Mạc Kính Điển đánh mạnh nên Trịnh Kiểm lại phải lui quân về Thanh Hoa.

Tháng 10 năm 1567, Trịnh Kiểm ốm nặng, phải trao quyền cho con là Trịnh Cối và Trịnh Tùng nối giữ chức Thái Quốc công giúp Lê Anh Tông và giao Nguyễn Hoàng trấn thủ cả Thuận Hóa và Quảng Nam.

 Tháng 2 năm 1570, Trịnh Kiểm chết, anh em Trịnh Cối và Trịnh Tùng tranh quyền.

Thấy triều Lê Anh Tông lục đục, quan Bố Chính là Lập quận công Mạc Lập Bạo đem quân về đầu hàng Mạc Mậu Hợp.

Mạc Kính Điển nhân thế đem quân đánh thẳng vào Thanh Hoa. Cuộc tấn công Lê - Trịnh lúc này của nhà Mạc kéo dài suốt năm 1570 nhưng vẫn chưa phân thắng bại.

Từ năm 1571 đến năm 1580, Mạc Kính Điển liên tiếp xuất quân đánh Lê Anh Tông. Quân nhà Mạc tiến sâu vào Nghệ An, Thuận Hóa, Quảng Nam nhưng cuối cùng cũng không đánh chiếm được.

 Tháng 10 năm 1573, Mạc Mậu Hợp mới 12 tuổi, từ bến Bồ Đề qua sông vào Đông Kinh, đắp thành ở bên ngoài cửa Nam, dựng một ngôi điện bằng tranh tre để ở.

Năm 1577, Mạc Mậu Hợp 16 tuổi, lấy con gái của Cẩm y thư vệ sự Phú Sơn hầu Vũ Văn Khuê là nàng Vũ Thị Hoành làm vợ, lập làm Chính phi. Ngày 21 tháng 2 năm 1578, Mạc Mậu Hợp bị sét đánh vào cung, liệt nửa người, chữa mãi mới khỏi.

Lúc này rất nhiều người trước kia hy vọng vào sự tốt đẹp của vương triều mới, đã ra thi thố tài năng giúp việc, đều chán nản, muốn rút về ở ẩn.

 Tháng 10 năm 1580, Mạc Kính Điển lâm bệnh mất sau 34 năm phụ chính cho các ấu chúa nhà Mạc. Khi Mạc Kính Điển mất, Mạc Mậu Hợp đã trưởng thành nhưng việc nước vẫn chưa thể đảm nhiệm hết.

 Vậy nên, Mạc Mậu Hợp trao quyền cho Trung doanh Tổng súy ứng vương cho 1 người chú khác là Mạc Đôn Nhượng.
Hình minh họa Trịnh Tùng giết
Hình minh họa Trịnh Tùng giết Mạc Mậu Hợp

Mạc Đông Nhượng là em út của Mạc Kính Điển. Tuy nhiên, do Mạc Đôn Nhượng vốn là người nhu nhược, thiếu tính quyết đoán nên 3 năm sau kể từ ngày được Mạc Mậu Hợp bổ nhiệm chức vụ vẫn chưa một lần xuất quân đi đánh dẹp nhà Lê, Trịnh.

 Không những thế Mạc Đôn Nhượng cũng thường xuyên trễ nải việc quân. Các việc triều chính khác cũng không quán xuyến được như thời của Mạc Kính Điển. Nhà Mạc bắt đầu rơi vào thời kỳ khủng hoảng.

Sống xa hoa, hưởng lạc khiến triều chính suy sụp

Năm 1581, vua Mạc Mậu Hợp bị chứng bệnh mắt mờ mà không rõ nguyên nhân nên việc nước cũng không thể thường xuyên đảm trách.
Đến khi Mạc Mậu Hợp khỏi mắt thì lại sa vào lối sống xa hoa, kiêu ngạo, hay nghe xiểm nịnh, thường ít lắng nghe lời bàn luận, khuyên can của các bậc lương thần.

Vào năm 1582, Mậu Hợp cho dựng một ngôi điện, gọi là điện Giảng học.

Mặc dù danh nghĩa là điện Giảng học nhưng thực chất đó lại là nơi yến tiệc, chơi bời của Mạc Mậu Hợp. Ngôi điện vừa làm xong thì bất ngờ bị hỏa hoạn, cháy rụi trong một buổi tối.

Đến năm 1585, Mạc Mậu Hợp vào ở hẳn trong kinh thành Thăng Long. Vì vậy, vua Mạc Mậu Hợp sai tu sửa kinh thành, xây dựng lại với quy mô lớn hơn.

 Chính vì sự hoang dâm vô độ, ăn chơi xa xỉ cũng như làm nhiều việc trái với luân thường đạo lý của vua Mạc Mậu Hợp mà triều đình nhà Mạc lúc này ngày càng đổ nát, binh lực suy yếu, lòng người ly tán.

Trước tình thế không thể thay đổi được cách hành xử của đấng quân vương, nhiều trọng thần kể cả quan văn, quan võ đều có ý định cáo quan về hưu.

Mạc Mậu Hợp phải tìm nhiều cách giữ lại thì những vị quan này mới tiếp tục ở lại triều đình. Quan Thái bảo Giáp Trưng từng khuyên Mạc Mậu Hợp “Trí túc bất nhục”, nghĩa là: “Biết đủ thì không nhục”.

Nhưng Mạc Mậu Hợp không nghe theo nên Giáp Trưng xin về. Mậu Hợp cố giữ lại, Giáp Trưng tâu rằng: “Tiên Hoàng thường xử: Niên túi tiện quy”.

Thế là Mạc Mậu Hợp không thể lưu giữ quan Thái Bảo Giáp Trưng được nữa.

Hay như, Đông Các học sỹ Nguyễn Văn Nhuận cũng có lần đã mạnh bạo tâu với Mậu Hợp: “Nếu mọi việc, việc gì cũng không cốt ở sự thực mà chỉ chuộng hư văn, hạ thần sợ rằng việc trong thiên hạ sẽ dồn tới số không hết thảy”.

Tuy nhiên, dù được các đại thần hết mực khuyên can và có những lời bàn chí lý nhưng Mạc Mậu Hợp đều không để tâm đến mà tiếp tục ăn chơi, hưởng lạc. Tất cả những điều này khiến cho việc triều chính của nhà Mạc ngày càng suy sút.

Trong một thời gian dài, trong cuộc tranh chấp giữa anh em họ Trịnh khiến cho nhà Trịnh không đủ khả năng tấn công ra Bắc. Nhưng sau khi Mạc Kính Điển mất, nhà Trịnh triều bắt đầu phản công trở lại và dần dần chiếm ưu thế trên chiến trường.

Vua Mạc Mậu Hợp do không chú trọng tới chính sự càng khiến tinh thần quân đội trở nên đuối kém đi. Đến cuối năm 1591, Trịnh Tùng khởi đại quân đánh ra Bắc.

Mạc Mậu Hợp huy động toàn quân Bắc triều hơn 10 vạn người, sai Mạc Ngọc Liễn giữ Tây đạo, Nguyễn Quyện giữ Nam đạo, tự nhà vua cũng tham gia đi trung quân.

 Ngày 27/12/1591, quân Mạc đi đến Phấn Thượng gặp quân Lê -Trịnh, cùng dàn trận. Mạc Ngọc Liễn bên phải, Nguyễn Quyện bên trái. 2 bên đánh nhau to suốt từ hôm đó sang tận đầu năm sau.

Ngày 3 tháng giêng năm 1592, quân Mạc thua trận. Mạc Mậu Hợp bỏ kinh thành chạy sang Bồ Đề, để Mạc Ngọc Liễn và các tướng ở lại chống giữ.

Ngọc Liễn lĩnh quân bản bộ giữ từ cửa Bảo Khánh tới cửa Nhật Chiêu. Trần Bách Niên và Bùi Văn Khuê giữ từ Cầu Da tới Cầu Dền.

Nguyễn Quyện giữ từ Mạc Xá sang phía đông kinh thành. Đến ngày mùng 6 tháng giêng, 2 bên hỗn chiến một trận ác liệt nữa. Trịnh Tùng tiến đến gò tập bắn bày trận, chia đường cho các tướng tiến đánh.

 Trần Bách Niên và Bùi Văn Khuê thua trận bỏ chạy, Nguyễn Quyện đặt phục binh không kịp trỗi dậy nên bị bắt. Mạc Ngọc Liễn cô thế phải bỏ luỹ rút lui. Thăng Long thất thủ.

 Đến tháng 3 năm 1592, Trịnh Tùng san phẳng thành luỹ Thăng Long nhưng rồi lại phải rút về Thanh Hoá vì biết chưa đủ sức chiếm giữ kinh thành.

Âm mưu cướp vợ bề tôi và cái chết thảm

Mạc Mậu Hợp thấy quân Nam rút, cho rằng quân Nam yếu. Khi trở về kinh thành, nhà vua lại hưởng lạc như cũ, không lo lắng việc phòng chống quân Trịnh và tổ chức phản công.

 Không những thế, cũng vào chính thời điểm này, vua Mạc Mậu Hợp còn thực hiện âm mưu giết bề tôi cướp vợ có 1 không 2 trong các triều đại phong kiến Việt Nam.

Đó chính là việc Mạc Mậu Hợp vì mê đắm vợ của tướng Bùi Văn Khuê mà lập mưu giết vị tướng này nhằm cướp vợ.

 Nguyên lão tướng Nguyễn Quyện của nhà Mạc sinh được 2 người con gái. Con gái lớn là Hoàng hậu của Mạc Mậu Hợp. Con gái thứ Nguyễn Thị Niên là vợ tướng Bùi Văn Khuê. Tháng 8 năm 1592, Nguyễn Thị Niên vào cung thăm chị mình là Hoàng hậu.

Vua Mạc Mậu Hợp nhìn thấy Nguyễn Thị Niên liền bị sắc đẹp của thị Niên lôi cuốn, nảy sinh tình ý và muốn giữ lại bên mình.

Khi biết Nguyễn Thị Niên là vợ của tướng Bùi Văn Khuê, Mạc Mậu Hợp bèn triệu Nguyễn Thị Niên vào trong phòng, giữ lại trong cung tới sáng.

 Mạc Mậu Hợp dự định giữ Nguyễn Thị Niên lại luôn rồi sẽ triệu tướng Bùi Văn Khuê lúc này đang trấn thủ ngoài kinh về để giết.

Biết được âm mưu của vua Mạc Mậu Hợp, Nguyễn Thị Niên đã vô cùng sợ hãi. Nguyễn Thị Niên lén sai người hầu cận mật chạy đi báo cho Bùi Văn Khuê.

 Khi Bùi Văn Khuê biết chuyện, bèn dẫn quân bản bộ về giữ hạt Gia Viễn, không nghe theo mệnh lệnh của triều đình nữa.

 Vua Mạc Mậu Hợp mấy lần vời vào cung Bùi Văn Khuê cũng không tới. Vậy là vua Mạc Mậu Hợp bèn sai tướng dẫn quân tới hỏi tội Bùi Văn Khuê.

Viết về sự kiện có 1 không 2 trong lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam này, sách “Lê triều thông sử” có chép: “Vợ viên trấn thủ Nam đạo Sơn quận công Bùi Văn Khuê là Nguyễn Thị Niên, tức con gái Nguyễn Quyện.

Chị gái của Thị Niên là hoàng hậu của Mậu Hợp vì thế Thị Niên thường được ra vào trong cung. Mậu Hợp thấy Thị Niên, đem lòng yêu mến bèn ngầm tính kế giết Văn Khuê để cướp vợ y”.

Hay như trong sách “Khâm định Việt sử thông giám cương mục” có viết: “Chúa Mạc là Mậu Hợp ngày ngày say đắm tửu sắc.

Nguyễn thị là con gái của Nguyễn Quyện và là vợ Bùi Văn Khuê, nhân có em gái là vợ của Mạc Mậu Hợp, nên thường ra vào trong cấm cung.

 Mậu Hợp ưng ý Nguyễn thị vì nàng có nhan sắc, nên muốn giết Văn Khuê để chiếm lấy nàng.

Văn Khuê biết chuyện, bèn đem quân bản bộ tự ý rút về Gia Viễn, đóng binh 1 chỗ, không chịu vào chầu. Mậu Hợp sai quân đến bức bách để bắt Văn Khuê sai con trai là Văn Nguyên chạy vào Thanh Hoa, dâng lễ đầu hàng và xin cứu viện.

Trịnh Tùng ưng nhận cho hàng và mừng rỡ nói: Văn Khuê đầu hàng, thế là trời giúp cho ta được chóng thành công. Đất đai bản triều có thể hẹn ngày khôi phục được”.

Vì sự việc này mà tháng 10 năm 1592, tướng Bùi Văn Khuê trưng binh chống giữ, và sai con trai chạy tới hành doanh, yết kiến phủ Trịnh Tùng, khóc lóc cáo tố sự tình, xin đầu hàng và xin cho quân cứu viện.

 Thế là Bùi Văn Khuê cùng cánh quân thuỷ, vốn là sở trường của quân Mạc, về hàng Nam triều.

Trịnh Tùng bèn sai Hoàng Đình Ái dẫn 1 đạo quân đi trước, để cứu Bùi Văn Khuê và khởi đại binh theo sau.

Một đại tướng khác là Trần Bách Niên thất vọng với việc Mạc Mậu Hợp chỉ biết ăn chơi, hưởng lạc cũng sang hàng Nam triều.

 Vậy là, trong 1 thời gian ngắn, liên tiếp có hơn 10 tướng nhà Mạc sang đầu hàng nhà Lê. Tình hình nhà Mạc ngày càng nguy cấp. Trong triều lúc này chỉ còn trông cậy vào một mình Mạc Ngọc Liễn.

Đến ngày 14 tháng 11 năm 1592, quân Nam triều chia 2 đường thuỷ lục cùng đánh từ Hát Giang.

Mạc Ngọc Liễn dàn chiến thuyền chống cự, trồng cột gỗ dưới lòng sông, đắp luỹ trên bờ cố thủ. Trận chiến diễn ra ác liệt từ ngày 4 đến ngày 14 tháng 12 năm 1592.

Vào ngày 14 tháng 12 luỹ quân Mạc bị quân Nam triều phá. Ngọc Liễn bỏ thuyền chạy về núi Tam Đảo. Quân Mạc chính thức bị tan vỡ.

Lúc này, Trịnh Tùng đích thân đốc bộ binh, thừa thế đuổi dài, thủy quân cũng thuận dòng xuôi xuống, tới cửa Nam kinh thành Thăng Long, đóng tại bến Sa thảo, bắt được hơn nghìn chiến thuyền, kể cả lớn nhỏ.

Đêm 14 tháng 12 năm 1592, Mạc Mậu Hợp bỏ kinh thành chạy trốn. Các tôn tộc cũng tìm đường trốn lánh. Tướng sĩ nhà Mạc thì nối tiếp ra hàng quân Lê Trịnh.

Đến ngày 15 tháng 12, Trịnh Tùng tiến quân về Kim Thành. Mậu Hợp lại tiếp tục trốn chạy.

Quân Nam triều thu được rất nhiều vàng bạc của cải, đồ dùng. Không những thế, quân Nam triều còn bắt được Thái hậu mẹ của ông giải về Kinh sư.

Khi đến sông Bồ Đề, Thái hậu vì quá sợ nên đã mất. Sau khi rời bỏ kinh thành, Mạc Mậu Hợp dựng con trai là Mạc Toàn làm vua để giữ việc nước, đổi niên hiệu là Vũ An năm thứ nhất.

Còn bản thân mình thì tự mình làm tướng để chiến đấu. Tuy nhiên tới lúc đó chính sự nhà Mạc đã không thể cứu vãn được nữa.

Trịnh Tùng chia quân đánh các ngả, phá tan quân của một hoàng thân nhà Mạc là Mạc Kính Chỉ và sai quân đi truy lùng bắt Mạc Mậu Hợp.

Khi quan Trịnh Tùng từ sông Tranh về Thăng Long, nghe có người báo rằng Mạc Mậu Hợp cạo đầu làm sư, ẩn ở chùa Mô Khuê hạt Phượng Nhãn.

Trịnh Tùng bèn sai Nguyễn Đình Luận và Lưu Chản dẫn quân đi tìm bắt. Dân địa phương cho biết rằng, cách đó 11 ngày, Mạc Mậu Hợp giả làm ông sư, đến ẩn ở đây. Quân Nam bèn tìm đến chùa. Lúc đó Mạc Mậu Hợp đang nghiễm nhiên ngồi xếp bằng tròn.

Khi bị quân Nam gạn hỏi thì Mậu Hợp ấm ớ đáp rằng: “Bần tăng tu hành từ hồi còn trẻ tuổi ở am mây này; chén muối, đĩa rau hàng ngày trai dưỡng; thắp hương thờ phật, công đức chuyên làm”.

Quân Nam triều nghe thấy cách trả lời, liền biết đó là Mạc Mậu Hợp giả làm nhà sư nên đã bắt giữ.

Mạc Mậu Hợp tự liệu không thể thoát được nên đã thú thật danh tính của mình và nói rằng: “Mấy ngày trước đây, tôi chạy trốn ẩn núp trong rừng rậm, đã quá đói khát, dám xin cho mình 1 bình rượu uống cho đã”.

Quân sĩ Nam triều nghe thấy vậy, cũng động lòng bèn đưa cho Mạc Mậu Hợp 1 bình rượu để uống.

Sau khi Mậu Hợp uống thỏa thích, ngậm ngùi than rằng: “Nghiệp chướng quá sâu! Nay cầu làm 1 người dân thường, cũng không thể được. Tội lỗi chỉ vì tổ tiên đã làm sự giết vua cướp ngôi, đến nỗi con cháu ngày nay phải mắc tội nặng như vầy.

Mong tướng sĩ dẫn tôi đến trước Hoàng đế, để bày tỏ thực tình. Đó là lòng tôi rất mong muốn”.

Quân Nam triều bèn sai dùng voi chở Mạc Mậu Hợp và 2 kỹ nữ, giải về Thăng Long. Khi Mạc Mậu Hợp tới trước hành doanh, Trịnh Tùng sai dàn binh mã cực kỳ uy nghiêm, rồi mới cho dẫn Mậu Hợp vào yết kiến.

Mậu Hợp lễ dập đầu phủ phục ở ngoài sân. Trịnh Tùng truyền hỏi tới 3 lần nhưng Mậu Hợp vì quá sợ, cứ ấm ớ không thể đáp được. Cuối cùng, Trịnh Tùng bèn sai dẫn ra ngoài cửa quân, giam Mạc Mậu Hợp tại đây.

Tất cả các quan văn võ của Nam triều đều bàn rằng nếu chiếu điều luật thì những kẻ phạm tội thoán thí phải xử theo luật “lăng trì” để làm gương cho mọi người và đúng phép nước.

 Đồng thời phải đem thủ cấp tế cáo nhà Tôn miếu, để rửa sỉ nhục của Tiên vương và bớt cơn giận của thần nhân.

Tuy nhiên, Trịnh Tùng thấy Mạc Mậu Hợp về hàng, không nỡ gia cực hình, bèn sai đem treo sống Mậu Hợp 3 ngày.

Sau đó, Trịnh Tùng ra lệnh chém đầu Mạc Mậu Hợp ở tại bãi cát Bồ Đề, đem thủ cấp dâng lên vua Lê Thế Tông tại hành tại Vạn Lại ở Thanh Hoa.

Nhà vua ra lệnh đem đóng đinh vào 2 con mắt Mạc Mậu Hợp rồi bêu ra ngoài chợ. Người con trai của Mạc Mậu Hợp là Mạc Toàn xưng hiệu là Vũ An vẫn tìm cách chống lại quân Nam triều.

Tuy nhiên, do lòng dân không thuận, các tướng sĩ cũng chẳng còn ai nên phải sống trong cảnh thân cô thế cô, 1 mình tìm cách lẩn trốn.

Cuối cùng, không lâu sau khi Mạc Mậu Hợp bị bắt và bị treo cổ chết, Mạc Toàn cũng bị quân Nam triều bắt được, đem chém đầu tại bến Thảo Tân.

Vậy là, Mạc Mậu Hợp ở ngôi vua được 29 năm, thọ 30 tuổi. Vì sau khi Mạc Mậu Hợp bị giết chết, nhà Mạc cũng mất nên không được đặt miếu hiệu và thụy hiệu.

Các nhà nghiên cứu lịch sử nhận định rằng sự thất thế của Mạc Mậu Hợp trước hết bắt đầu từ lối sống xa hoa mà nhà vua đã lựa chọn.

Lại thêm 1 sai lầm chết người rất căn bản là Mạc Mậu Hợp đã kiêu ngạo, không chịu nghe lời bàn về việc quân cũng như việc triều chính của các bậc lương thần.

Bản thân việc dùng Mạc Đôn Nhượng làm quan phụ chính cũng là một sai lầm lớn bởi Mạc Đôn Nhượng vốn là người thiếu bản lĩnh, nhu nhược.

Như vậy là họ Mạc từ Mạc Đăng Dung đến Mạc Mậu Hợp, truyền ngôi được 5 đời thì mất, tổng cộng được 66 năm. Sau khi Mạc Mậu Hợp mất, con cháu nhà Mạc rút lên Cao Bằng.

Theo sấm Trạng Trình, họ Mạc còn kéo dài được đến 96 năm nữa mới bị mất hẳn. Về sau, con cháu nhà Mạc không xưng đế mà chỉ trấn thủ ở vùng núi phía Bắc trong vòng hơn 80 năm nữa ở vùng đất này.

Sử nhà Lê chép vào tháng 7 năm 1594, Đà quốc công nhà Mạc là Mạc Ngọc Liễn trước khi qua đời để lại thư khuyên Mạc Kính Cung rằng: “Nay họ Mạc khí vận đã hết, họ Lê lại phục hưng, đó là số trời”.

Mặc dù sống xa xỉ, dẫn đến sự suy vong của nhà Mạc, nhưng trong thời gian làm vua, Mạc Mậu Hợp cũng đã làm được một số điều đáng ghi nhận, trong đó có việc mở các khoa thi để chọn nhân tài.

Nối theo nề nếp của cha ông, Mạc Mậu Hợp mở tất cả 7 khoa thi. Ngay cả khi chiến sự ác liệt ở kinh thành vào mùa hè năm 1592, Mạc Mậu Hợp vẫn mở khoa thi Cử nhân ở bến Bồ Đề, lấy Phạm Hữu Năng và 16 người trúng tuyển. Âu cũng là một trong những điều tốt đáng được ghi nhận của vị vua này.
  • Hùng Hoàng

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét