CHI HỘI THƯƠNG BINH TINH NGHĨA 282 lê lợi Liên hệ: 0313840668-0934563996           CHI HỘI THƯƠNG BINH TINH NGHĨA 282 lê lợi Liên hệ: 0313840668-0934563996                   CHI HỘI THƯƠNG BINH TINH NGHĨA 282 lê lợi Liên hệ: 0313840668-0934563996                   TIN TỔNGHỢP                     GIÃ SỬ                         QUÂNSỰ             HOANG SA                                        Biển Đông       Thế Giới     Tin trong nước      Sử Việt       UFO      Chuyện Lạ      Gia Đình;

Thứ Năm, 11 tháng 7, 2013

Ngôi miếu cổ rửa oan tình cho công chúa Huyền Trân

Tướng Trần Khắc Chung chỉ huy quân sĩ lập các chiến lũy ngăn cản quân Chiêm xông vào làng. Đích thân ông cầm giáo, dẫn quân chặn ở cửa ngõ chính dẫn vào đình làng, nơi công chúa Huyền Trân đang thiền tọa. Giao tranh ác liệt diễn ra hơn bốn ngày, bốn đêm, quân sĩ hy sinh vô số. Bước sang ngày thứ 5 thì Đại Việt chỉ còn gần 300 lính quyết tử chiến ở bốn cửa ngõ, người làng buộc phải cầm vũ khí chống quân Chiêm”.

Thực hư câu chuyện diễn ra như thế nào, nhà sử học Lưu Anh Rô dẫn lại: Vào mùa hạ năm Đinh Mùi - 1307, sau gần một năm làm dâu Chiêm quốc được tấn phong Hoàng hậu với mỹ hiệu Paramesvari thì vua Chế Mân không may gặp bạo bệnh qua đời.
Công chúa Huyền Trân trở thành góa bụa khi mới bước vào tuổi 20. Theo tập tục của người Chăm lúc bấy giờ thì “Vua chết, hậu phải chết theo”, nhưng do Công chúa Huyền Trân đang mang thai Thái tử Chế Đa Đa nên việc hỏa thiêu được phép lùi lại.
Đến tháng 10 năm đó chuyện công chúa chuẩn bị lên giàn hỏa thiêu truyền về Thăng Long khiến vua Trần Anh Tông xót xa, lo lắng không nguôi. Vua cho vời các triều thần đến bàn bạc kế sách nhưng không ai đưa ra được chủ kiến hay để giải cứu công chúa.
“Lúc này, võ tướng Trần Khắc Chung đứng ra giữa triều xin lĩnh trọng trách sẽ lên đường vào Nam đưa công chúa hồi quốc. Ông chỉ xin mang theo 5.000 quân sĩ, lương thảo cùng một số chiến thuyền lớn để vượt biển.
Tượng Huyền Trân Công Chúa bằng đồng tại đền thờ ở Huế
Tượng Huyền Trân Công Chúa bằng đồng tại đền thờ ở Huế
Nghe có lý, vua Trần Anh Tông thuận lòng và ra chiếu chỉ sai quan Nhập Nội Hành khiển Thượng thư Tả Bộc xạ Trần Khắc Chung và An phủ sứ Đặng Văn cùng đoàn tùy tùng đi thuyền sang Chiêm quốc viếng tang, nhằm thực hiện kế hoạch giải cứu Công chúa Huyền Trân về Đại Việt” ông Rô kể.
Trước khi tiến vào địa phận của Chiêm Thành, Khắc Chung viết một bức mật thư sai người đưa cho công chúa để thông báo kế hoạch. Theo thư này, công chúa Huyền Trần sẽ yêu cầu được dựng đàn cầu siêu cho chồng ở một nơi hiểm yếu, gần biển, không ai được quấy rầy.
Lợi dụng lúc quân lính canh gác lơ là, xe ngựa của Huyền Trân nhìn về phương Bắc “trực chỉ”. Sau khi làm lễ tế ở bãi biển Thị Nại (Quy Nhơn), võ tướng Trần Khắc Chung cùng An phủ sứ Đặng Văn và đoàn tùy tùng theo mưu kế định sẵn, đã đưa Công chúa Huyền Trân xuống thuyền nhanh chóng dong buồm ra Bắc.
Quân Chiêm thấy hoàng hậu bỏ trốn liền rượt đuổi, nhưng bị quân Việt phục binh tiêu diệt toàn bộ số thiết kỵ của Chiêm Thành.
Tháo chạy khỏi Quy Nhơn (thủ phủ của Chiêm Thành), Đoàn chiến thuyền của võ tướng Trần Khắc Chung từ Bình Định ra Thăng Hoa, vào cửa Đại Chiêm (Cửa Đại) rồi theo đường sông Cổ Cò ra Cẩm Lệ (Đà Nẵng).
Từ đó, họ đi bằng đường bộ đến Xuân Sơn Hoa Ô (Nam Ô)... Tại làng Nam Ô, đoàn người nán lại để tìm cách vượt Ải Vân ra thành Hóa Châu (thuộc quyền quản lý của Đại Việt).
Khi biết Công chúa Huyền Trân cùng đoàn quân của võ tướng Trần Khắc Chung đang trên đường từ Chiêm quốc về lại Đại Việt, dân làng Nam Ô lúc bấy giờ đã tiếp đón và che chở một thời gian…
Nhưng, chẳng bao lâu sau, quân Chiêm nghe ngóng được sự tình, kéo đến bao vây bốn mặt. Dân làng đã cùng đoàn quân của võ tướng Trần Khắc Chung chống trả quyết liệt. Gia phả họ Đặng của làng chài Nam Ô còn chép lại:
“Tướng Trần Khắc Chung chỉ huy quân sĩ lập các chiến lũy ngăn cản quân Chiêm xông vào làng. Đích thân ông cầm giáo, dẫn quân chặn ở cửa ngõ chính dẫn vào đình làng, nơi công chúa Huyền Trân đang thiền tọa.
Giao tranh ác liệt diễn ra hơn bốn ngày, bốn đêm, quân sĩ hy sinh vô số. Bước sang ngày thứ 5 thì Đại Việt chỉ còn gần 300 lính quyết tử chiến ở bốn cửa ngõ, người làng buộc phải cầm vũ khí chống quân Chiêm”.
Lúc này, Trần Khắc Chung có hai vị tướng tài là: “Tiền quân oai” và “Hậu quân oai”. Nhưng vị hậu quân oai hi sinh ở sông Cẩm Lệ, chỉ còn lại vị tướng tiền quân xin nguyện ở lại chống giặc.
Vị tướng này đã chỉ huy toán quân gần 200 lính, liều chết đánh chặn hậu để ông dùng thuyền nhẹ đưa Công chúa Huyền Trân ra khơi và cả đoàn dong buồm thẳng hướng Hòn Hành, thoát ra thành Hóa Châu.
Phát hiện có đoàn người chạy trốn ra khỏi làng, quân Chiêm càng đẩy thế tấn công, dồn hết bốn điểm chống cự lại co cụm giữa sân đình. Nhưng viên tùy tướng vẫn anh dùng chiến đấu, cầm đao lao vào ngăn giặc, không cho quân binh truy đuổi theo đoàn hộ giá Công chúa.
Khi những chiếc thuyền của võ tướng Trần Khắc Chung mờ khuất trong màn sương khói khơi xa thì thế trận phòng ngự của quân Việt cũng tan vỡ. Viên tướng giữ nhiệm vụ đánh chặn hậu cùng hơn 200 binh lính cũng anh dũng hy sinh.
Sử cũ chép lại: “Ông là người Việt đầu tiên ở lại đất Chiêm Thành và chết trên đất Chiêm Thành. Sau vào thời Chế Bồng Nga, người Chiêm lấy lại đất này, phá bia mộ ông nên ông thành người vô danh”.
Ghi nhớ công đức mở đất phương Nam của Công chúa Huyền Trân, dân làng Nam Ô lập miếu thờ bà. Còn vị tướng dưới trướng Trần Khắc Chung lâm trận hy sinh cũng được chôn cất tử tế và phong làm tiên hiền của làng...
Trước di tích mộ tiền hiền làng Nam Ô, ông Lê Hào ngậm ngùi đọc mấy câu trong bài văn tế được truyền lại từ hàng trăm năm trước:
“Cổ vân lôi ư, tam cấp vũ môn, ninh kiến hà trừng thiên lý/ Chiêm phong lãng ư, kỷ trùng hoàng hải, vĩnh khang thốn tức thôn kình” (Tạm dịch: Sấm mây xưa hử, qua mấy màn mưa, lặng nhìn thấy đâu ngoài thiên lý/ Sóng gió Chàm hừ, bồn chồn nhớ nước, kiên gan chờ nuốt cả kình ngư).
Bài văn tế được xướng lên trong ngày giỗ tiền hiền của làng Nam Ô vào mỗi độ 24/6 âm lịch hằng năm.
Thực hư câu chuyện oan tình ở ngôi miếu cổ
Trên đường đưa tôi đến di tích ngôi mộ của vị tướng quân tử trận đã hơn 700 năm trước, cụ Hào cho hay, di tích mộ tiền hiền làng chài Nam Ô nằm trên một doi cát, bên chân sóng. Đứng ở nơi này phóng tầm mắt nhìn về núi Xuân Dương trông dải núi nhô ra phía biển tựa như một lưỡi kiếm.
Xa hơn nữa là Hòn Hành cũng tách biệt với dãy núi Hải Vân chơ vơ, cô độc giữa mênh mông sóng vỗ, ẩn hiện trong làn sương khói lênh đênh. Gió biển thổi lồng lộng, song chất giọng “ăn sóng, nói gió” của người đã ngoài lục tuần, cụ Hào cứ sang sảng khi đọc hai câu đối khắc trước trụ đá nhà bia:
“Hóa công lưu nghiệp thiên thu tại/ Ba huệ khai cơ vạn cổ tồn”. Rồi cụ Hào giải thích rằng, hai câu thơ trên đã lưu truyền từ hàng trăm năm qua để ghi nhớ người có công mở mang, bờ cõi.
Trong câu chuyện do cụ Hào và ông Rô kể, những chi tiết hư hư, thực thực đan xen lẫn nhau khiến câu chuyện càng trở nên kỳ bí, lạ lùng.
Theo ông Rô, trong cuốn “Đại Việt sử ký toàn thư” của sử gia Ngô Sĩ Liên biên soạn phát hành vào thời Hậu Lê - năm 1697, tức là sau 390 năm xảy ra vụ giải cứu Công chúa Huyền Trân thoát họa “lửa thiêu” của người Chiêm Thành, ông lên án gay gắt đối với võ tướng Trần Khắc Chung, nhất là chuyện tư thông với Công chúa Huyền Trân.
Có thể, từ cơ sở này nên nhiều người đời sau đã thêu dệt nên câu chuyện tình đầy lâm ly, bi đát giữa Công chúa Huyền Trân và võ tướng Trần Khắc Chung. Thậm chí, có người còn dựa vào câu ca dao:
“Tiếc thay hạt gạo trắng ngần. Đã vo nước đục, lại vần lửa rơm”, cho là dân gian muốn ám chỉ câu chuyện thất tiết của nàng công chúa Đại Việt “Mượn màu son phấn. Đền nợ Ô, Lý”.
Chuyện xưa đến nay còn truyền rằng, sau khi được viên tùy tướng chặn hậu, Trần Khắc Chung dẫn công chúa dong thuyền, vượt biển. Gặp lại vị tình lang trong mộng, hai người quấn quít bên nhau, bất chấp kẻ hầu, người hạ đứng vây quanh.
Tướng Khắc Chung đã yêu cầu công chúa cùng vào đồn trú ở thành Hóa Châu, không trở về Thăng Long nữa, để mãi mãi sống kiếp “phu – thê”. Nhưng công chúa Huyền Trân không đồng ý, một mực khuyên can Khắc Chung về triều, rồi xin anh (vua Trần Anh Tông) đứng ra làm mai mối cho cuộc tình duyên dở dang.
Tuy nhiên, phần đông sử gia ngày nay khẳng định, câu chuyện tình là sự gán ghép ác ý của các sử gia thời Hậu Lê. Vì rằng, trên bước đường giải cứu Công chúa Huyền Trân, không chỉ có mỗi võ tướng Trần Khắc Chung mà còn có An phủ sứ Đặng Văn và đoàn tùy tùng.
Vả lại, Khắc Chung vốn người họ Đỗ, song do đã lập nên công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên năm 1285 nên được nhà vua ban quốc tính đổi thành Trần Khắc Chung, phong chức Nhập Nội Hành khiển Thượng thư Tả Bộc xạ thì con người đảm lược tài ba ấy đâu thể làm chuyện bại hoại danh tiếng.
Thêm vào đó là sự chênh lệch tuổi tác giữa Trần Khắc Chung và Công chúa Huyền Trân... Ông Rô cũng bác bỏ giả thuyết võ tướng Trần Khắc Chung dùng thuyền nhẹ cướp Huyền Trân Công chúa từ bãi biển Thị Nại đưa ra biển lớn và đi loanh quanh trên biển một năm sau mới về tới Thăng Long.
“Điều ấy hoàn toàn vô lý, bởi vì tiết trời tháng 9, tháng 10 ở miền Trung mưa, bão liên miên. Một chiếc thuyền nhỏ làm sao có thể bám biển, chống chọi với phong ba bão tố.
Huống gì, thuyền nhỏ để cho võ tướng Trần Khắc Chung và Công chúa Huyền Trân tư tình thì thử hỏi An phủ sứ Đặng Văn cùng những người khác trong đoàn tùy tùng đi ngã nào?”.
Từ đó, ông Rô dẫn lại chuyện kể về trận đánh chặn hậu của vị tùy tướng ở làng Nam Ô, cùng miếu thờ vọng Huyền Trân Công chúa, cho thấy dù đây là chuyện ngoài chính sử, song cũng thêm một cứ liệu xác đáng để các nhà khoa học quan tâm mà có thể rửa sạch mối oan tình bấy lâu nay người đời đồn đại giữa võ tướng Trần Khắc Chung và Công chúa Huyền Trân.
Rời di tích mộ tiền hiền làng Nam Ô, tôi đến miếu thờ dưới núi Xuân Dương. Trước cảnh ngôi miếu cổ hàng trăm năm tuổi đổ nát theo thời gian mà không khỏi chạnh lòng. Các bô lão cho biết, khắc ghi lời dạy của cha, ông, hằng năm, cứ “xuân thu nhị kỳ” dân làng đều cúng tế tại miếu này.
Song, việc trùng tu, bảo tồn di tích thì chưa có sự quan tâm của cơ quan chức năng. Họ cũng tiết lộ về những bài vị trong miếu là do mới được làm lại sau này chứ không phải có cùng thời khi ngôi miếu được xây dựng.
Vì thế, có thể tên những vị thần ghi trên bài vị khác với ý nghĩa được truyền tụng trong dân gian... “Vùng đất rộng lớn thuộc hai châu Ô - Lý, kéo dài từ bờ Nam sông Hiếu (Đông Hà, Quảng Trị) vào đến bờ Bắc sông Thu Bồn (Quảng Nam), trở thành đất của Đại Việt, kể từ khi Chế Mân dâng cho vua Trần làm sính lễ để xin cưới Huyền Trân Công chúa (1306).
Cho nên, khắp dải đất này nhân dân lập nên nhiều ngôi miếu thờ tưởng nhớ công lao của nàng công chúa “lá ngọc cành vàng” phải ra đi làm dâu Chiêm quốc vì nghĩa nước non...
Nên cần phải làm sáng tỏ mối oan tình giữa võ tướng Trần Khắc Chung và Công chúa Huyền Trân để rửa sạch những vết nhơ trong lịch sử” - ông Rô nói.
Theo một tài liệu mang tên “Đà Sơn phổ chí” do Tiến sĩ sử học Lưu Trang phát hiện nhiều điều rất thú vị.
Đó là sau đám cưới của Công chúa Huyền Trân với Chế Mân khoảng 40 năm, Vua Trần Minh Tông còn gả một nàng công chúa khác cho vị tướng quốc người Việt gốc Chăm là ông Phan Công Thiên, người được hậu thế phong thành tiền hiền làng Đà Sơn (nay thuộc phường Hòa Khánh Nam, quận Liên Chiểu, TP. Đà Nẵng).
Nàng công chúa này đã xin vua cha cho chở nhiều thóc, trâu vào và dạy cho dân từ đèo Hải Vân đến bờ Bắc sông Thu Bồn cày cấy. Nàng còn chỉ dạy người dân làm hàng chục kho lớn để chứa thóc giống...
Trở lại câu chuyện giải mối oan tình cho công chúa Huyền Trân, ông Rô và cụ Hào đều khẳng định, trận đánh chặn quân Chiêm ở làng Nam Ô là có thật và được gia phả của ba dòng họ lớn ở làng chép lại là: họ Đặng, họ Lê và họ Trần.
Nên câu chuyện thêu dệt, võ tướng Trần Khắc Chung dùng thuyền cướp công chúa Huyền Trân lênh đênh một năm trên biển và tư thông với nhau là không có cơ sở.

  • Dương Thanh

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét