CHI HỘI THƯƠNG BINH TINH NGHĨA 282 lê lợi Liên hệ: 0313840668-0934563996           CHI HỘI THƯƠNG BINH TINH NGHĨA 282 lê lợi Liên hệ: 0313840668-0934563996                   CHI HỘI THƯƠNG BINH TINH NGHĨA 282 lê lợi Liên hệ: 0313840668-0934563996                   TIN TỔNGHỢP                     GIÃ SỬ                         QUÂNSỰ             HOANG SA                                        Biển Đông       Thế Giới     Tin trong nước      Sử Việt       UFO      Chuyện Lạ      Gia Đình;

Thứ Năm, 11 tháng 7, 2013

Người chồng tối dạ đỗ trạng nguyên nhờ vợ

Lịch sử khoa cử Nho học nước ta kể từ khoa thi đầu tiên năm Ất Mão (1075) đến khoa thi cuối cùng được tổ chức vào năm Kỷ Mùi (1919) trải qua 844 năm với 185 khoa thi được mở; trên bảng vàng đề danh, bia đá khắc tên 2898 vị đỗ đại khoa nhưng trong số đó chỉ có 46 người giành được học vị Trạng nguyên cao quý.


Đây là những người được kính phục, ngưỡng mộ, xem là bậc đạo cao đức trọng, là khuôn mẫu cho các thế hệ sau soi vào học tập, sự thành công của họ nhờ vào trí thông minh, chăm chỉ hiếu học, tài năng xuất chúng, sự may mắn và cả nhờ vào sự động viện, khích lệ của…vợ.
Câu chuyện nổi tiếng trong lịch sử về vị Trạng nguyên nhờ vợ mà thành danh liên quan đến Vũ Tuấn Chiêu (1425 - ?), ông là vị Trạng nguyên thứ 13 của nước ta và là Trạng nguyên thứ 5 của triều Hậu Lê.
Vũ Tuấn Chiêu còn có tên khác là Vũ Tuấn Thiều, tên tự là Đôn Hối, nguyên quán làng Xuân Lôi, xã Cổ Da, huyện Tây Chân (nay thuộc xã Nam Hùng, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định), trú quán tại làng Nhật Thiên, xã Nhật Chiêu, huyện Quảng Đức, phủ Phụng Thiên (nay thuộc phường Nhật Tân, quận Tây Hồ, Hà Nội).
Khoa thi Ất Mùi (1475) niên hiệu Hồng Đức năm thứ 6 đời Lê Thánh Tông, ông về kinh ứng thí, vượt qua kỳ thi Hội rồi đỗ đầu kỳ thi Đình, đứng thứ nhất trong số ba đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ, đoạt danh hiệu Trạng nguyên.
Sử cũ cho hay tại kỳ thi Đình, đề thi năm đó vua Lê Thánh Tông hỏi các sĩ tử về phương kế làm cho binh mạnh và biện pháp khiến cho dân giàu.
Tiễn chồng đi thi (Tranh khắc gỗ dân gian)
Tiễn chồng đi thi (Tranh khắc gỗ dân gian)
Trong bài văn sách của mình, Vũ Tuấn Chiêu đưa ra các kiến giải của mình một cách sâu sắc, bài văn sách của này hiện vẫn được lưu lại trong cuốn gia phả của họ Vũ ở phường Nhật Tân (Quận Tây Hồ, Hà Nội) gồm 23 trang, mỗi trang 8 dòng, mỗi dòng từ 4 đến 31 chữ, nội dung là các câu trả lời về những điều mà vua hỏi.
Trong đó ông cho rằng: “Binh mạnh thì trong nước yên ổn, bên ngoài thần phục, nước sẽ vững như bàn thạch. Dân giàu thì lễ nghĩa được thi hành, giáo hóa cũng theo đó trở nên tốt đẹp”, mà muốn cho binh mạnh phải chọn tướng giỏi và nên “dùng nhà Nho để cai quản việc quân thì quân sẽ mạnh”, những nhà Nho đó không chỉ học rộng văn hay, thông kinh bác sử mà phải có lòng dũng khí, cố gắng quên mình.
Còn muốn dân giàu thì cũng cần “dùng Nho để chăn dân, nhưng phải dùng kẻ Nho có phẩm chất, có tác dụng. Giảm bỏ kẻ ăn không bớt chi tiêu phung phí, thực hành chế độ tiết kiệm để của cải sinh sôi, muôn họ giàu có. Vậy lo gì nước không giàu”.
Trong số các sĩ tử có quyển thi xuất sắc, bài văn nổi bật nhất kỳ thi Đình thuộc về ba người là Vũ Tuấn Chiêu, hai người còn lại là Cao Quýnh (người đỗ đầu thi Hội) quê ở huyện Đông Thành, phủ Diễn Châu, xứ Nghệ An (nay thuộc xã Cao Xá, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An) và Ông Nghĩa Đạt người huyện Từ Liêm, phủ Quốc Oai (nay thuộc xã Phú Thượng, huyện Từ Liêm, Hà Nội).
Vua Lê Thánh Tông thấy ba người tài năng như nhau, khó xếp hạng người trên kẻ dưới trong bảng Tam Khôi nên đã ra thêm một câu đó để thử sức. Vua bảo ba người đoán xem là chữ gì rồi đọc:
Thượng bất thượng (Thượng chẳng ở trên)
Hạ bất hạ (Hạ không ở dưới)
Chỉ nghi tại hạ (Chỉ nghi ở dưới)
Bất khả tại thượng (Bất khả ở trên).
Trong khi Cao Quýnh và Ông Nghĩa Đạt đang chau mày suy nghĩ thì Vũ Tuấn Chiêu đoán ra đó là chữ “Nhất”. Vua Lê Thánh Tông thấy ông thông minh, nhanh nhẹn liền chấm đỗ đầu thi Đình, ban cho học vị Trạng nguyên, Ông Nghĩa Đạt đoạt học vị Bảng nhãn, danh hiệu Thám hoa thuộc về Cao Quýnh.
Con đường học tập thành tài của Vũ Tuấn Chiêu gặp nhiều trắc trở, sinh ra tại làng Xuân Lôi, xã Cổ Da, đến năm ông được 6 tuổi thì cha lâm bệnh mất, họ hàng thân thích không nhiều, gia cảnh túng thiếu, đời sống ngày càng cùng quẫn khiến mẹ ông phải bán đợ hết nhà cửa, chỉ giữ lại một mảnh đất hương hỏa.
Cuối cùng hoàn cảnh buộc bà không còn cách nào khác là đưa con về sống nương nhờ sự đùm bọc, giúp đỡ của họ hàng nơi quê ngoại ở làng Nhật Thiên, huyện Quảng Đức, ngoại thành Thăng Long, còn mảnh đất hương hỏa gửi nhờ Trần Công là hàng xóm và cũng là bạn của chồng trông nom giúp.
Cuộc sống lần hồi của hai mẹ con Vũ Tuấn Chiêu cứ thế trôi qua hơn 10 năm trong khó khăn, nghèo khổ; đến khi ông trưởng thành cũng là lúc người mẹ qua đời, Vũ Tuấn Chiêu quyết định trở về Xuân Lôi thăm phần mộ ông, cha và mở mang đất đai, làm ăn sinh sống tại đây.
Vinh quy bái tổ (tranh Đông Hồ)
Vinh quy bái tổ (tranh Đông Hồ)
Bấy giờ Trần Công đã già, vợ cũng đã mất để lại cho ông một người con gái tên là Trần Thị Chìa, tuổi cũng vừa tròn đôi mươi. Thấy con trai của bạn trở về, mặt mũi sáng láng tuấn tú, dáng người khỏe mạnh, tính nết hòa nhã lại trơ trọi một thân một mình nên Trần Công vừa thương vừa cảm mến bèn gả con gái cho làm vợ.
Là người nết na, thùy mị, có lòng thuận hết mức, Trần Thị Chìa không quản vất vả, chăm chỉ việc ruộng đồng, dệt vải kéo tơ phụng dưỡng cha già, nuôi chồng ăn học.
Thế nhưng có một điều mà bà Chìa luôn cảm thấy chạnh lòng, đó là từ khi cha mất vào năm Kỷ Mão (1459), bà dành hết sự chăm lo cho chồng, mong ông sớm có ngày thành danh, bảng vàng đề tên song Vũ Tuấn Chiêu mặt mũi khôi ngô nhưng học hành tối dạ, hơn 10 năm đèn sách, tuổi đã ngoài tứ tuần mà học vẫn không tiến bộ, ngày ngày vẫn cắp sách đến lớp, ngồi học cùng đám hậu sinh tóc còn để chỏm nên có lúc lấy làm chán nản.
Biết chồng học hành kém cỏi nhưng bà Chìa vẫn kiên trì khuyên nhủ chồng cố gắng dùi mài kinh sử, hàng tháng đều đặn mang tiền và gánh gạo sang cho chồng đang trọ học ở làng Hạ Vũ (nay là thôn Vũ Lao, xã Nam Tân, huyện Nam Ninh, tỉnh Nam Định).
Một lần thầy giáo cảm thấy người học trò họ Vũ của mình khó có thể tiếp tục theo nổi việc học, nhân bà Chìa gánh gạo đến mới gọi lại trả chồng về, không cho học nữa vì kém quá, để làm ruộng còn hơn, ông bảo rằng: “Trò Chiêu tuổi đã nhiều, học không tấn tới, nay ta cho về giúp con việc nhà, việc đồng ruộng cho bớt bề vất vả”.
Mặc dù đã hết lời xin, nhưng thấy ý thầy đồ đã quyết, bà Chìa đành lạy chào rồi cùng chồng thu xếp quần áo, sách vở để về nhà. Khi đến đầu làng, hai vợ chồng dừng chân bên chiếc cầu đá bắc qua nhánh sông nhỏ để nghỉ ngơi, Vũ Tuấn Chiêu thấy mấy cây cột đá chân cầu bị mòn vẹt mới ngạc nhiên hỏi vợ; bà Chìa nói rằng:
“Nước chảy lâu ngày đã làm mòn những cột đá của cây cầu! Chàng thấy đấy, cột đá là vật cứng rắn, dòng nước thì mềm nhưng qua năm tháng cứ chảy mãi lâu ngày khiến cho đá cũng phải mòn, cho nên làm việc gì nếu có chí, sự kiên trì, nhẫn nại tất sẽ thành”.
Nghe lời vợ nói, Vũ Tuấn Chiêu chợt tỉnh ngộ như đám mây mù trước mắt được xua tan, ông liền bảo vợ trở về nhà, còn mình mang sách vở, quần áo trở lại nhà thầy đồ xin tiếp tục theo học. Thầy đồ hỏi nguyên do vì sao quay lại, Vũ Tuấn Chiêu đáp:
“Nước chảy đá mòn, thưa thầy việc học cũng như vậy, nếu có chí học thì thế nào cũng sẽ khá lên. Nay con trở lại trường quyết tâm dùi mài kinh sử, mong một ngày chiếm tên trên bảng vàng, trước là khỏi phụ công ơn dạy dỗ của thầy, sau là đền đáp tấm lòng của vợ và cũng là để thỏa cái chí của con”.
Tuy nghe lời nói đầy khẩu khí nhưng thầy đồ không tin tưởng lắm mới tìm cách đuổi người học trò đó đi. Giai thoại kể rằng, nhân khi đó trời nổi gió, lác đác có hạt mưa rơi nên thầy đồ mới tức cảnh ra vế đối và nói nếu đối được thì mới cho ở lại tiếp tục học, vế đối ra là:
“Lác đác mưa sa làng Hạ Vũ”. Suy nghĩ một lát, Vũ Tuấn Chiêu đối lại là: “Ầm ì sấm động đất Xuân Lôi”, khiến thầy đồ rất hài lòng, từ đó ông dốc chí học tập dần dần sức học tiến bộ hẳn lên.
Trong vòng 5 năm, bà Chìa tuy tóc đã hoa râm, lưng còng vì gánh nặng việc đời lẫn việc nhà, vừa nuôi con vừa lo việc ruộng vườn nhưng vẫn đều đặn gồng gánh đem gạo, mang dầu thắp đèn từ nhà đến nơi trọ học của chồng cho đến khi lâm bệnh mất, năm đó Vũ Tuấn Chiêu đã gần 50 tuổi.
Sau khi vợ mất ít lâu, Vũ Tuấn Chiêu một lần nữa rời quê hương đưa con trở về quê ngoại của mình ở làng Nhật Thiên, xã Nhật Chiêu để tiện việc học hành, chuẩn bị tham gia thi cử. Năm 50 tuổi, ông đỗ Tiến sĩ (Trạng nguyên) khoa Ất Mùi niên hiệu Hồng Đức 6 (1475).
Xét trong lịch sử Việt Nam, Vũ Tuấn Chiêu là một trong ba vị trạng nguyên già nhất khi đỗ đạt, ngoài ông ra còn có Nguyễn Đức Lượng, người xã Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam (nay thuộc huyện Thanh Oai, Hà Nội) đỗ Trạng nguyên khoa thi năm Giáp Tuất (1514) đời Lê Tương Dực và  Nguyễn Xuân Chính, quê ở làng Phù Chẩn, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc (nay là huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh), đỗ Trạng nguyên  khoa thi năm Đinh Sửu (1637) đời Lê Thần Tông; những người này đều đỗ khi đã 50 tuổi.
Đỗ đạt thành danh, Vũ Tuấn Chiêu bước vào con đường quan lộ, ông làm quan trải nhiều chức vụ, sau này giữ tới chức Tả thị lang bộ Lại, tước Đặc tiến Kim tử vinh lộc đại phu. Công danh sự nghiệp mà ông đạt được có đóng góp không nhỏ của người vợ hiền tần tảo Trần Thị Chìa, tiếc là bà đã không kịp nhìn thấy niềm vinh quang của chồng mình.
Vì bận việc công, để có người lo cửa nhà, sau khi hết tang vợ, Vũ Tuấn Chiêu đã tục huyền với bà Nguyễn Thị quê ở làng làng Chèm (nay thuộc xã Thụy Phương, huyện Từ Liêm, Hà Nội); ông bà sinh được 4 người con trai.
Không rõ năm mất của Vũ Tuấn Chiêu, gia phả chỉ chép ông qua đời vào ngày 29 tháng 8, phần mộ táng tại xứ Đồng Xù, xã Phú Xá, tổng Phú Gia, huyện Từ Liêm (nay thuộc phường Nhật Tân, quận Tây Hồ, Hà Nội).
Triều đình truy phong là “Tuấn lương Quang ý tôn thần”, sau gia tặng thêm làm “Dực bảo Trung hưng, Linh phù tôn thần”. Hiện nay tại nhà thờ chính của Vũ Tuấn Chiêu ở xã Nam Hùng, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định vẫn còn lưu giữ được tấm bia đá ghi hành trạng và 17 đôi câu đối ca ngợi sự thành đạt và công lao của ông đối với dân với nước. Trong đó có câu:
Hồng Đức văn chương khôi nhất giáp
Xuân Lôi trở đậu lịch thiên thu.
Nghĩa là:
Đời Hồng Đức văn chương nêu nhất giáp
Đất Xuân Lôi thờ cúng nghìn thu.
  • Lê Thái Dũng

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét