CHI HỘI THƯƠNG BINH TINH NGHĨA 282 lê lợi Liên hệ: 0313840668-0934563996           CHI HỘI THƯƠNG BINH TINH NGHĨA 282 lê lợi Liên hệ: 0313840668-0934563996                   CHI HỘI THƯƠNG BINH TINH NGHĨA 282 lê lợi Liên hệ: 0313840668-0934563996                   TIN TỔNGHỢP                     GIÃ SỬ                         QUÂNSỰ             HOANG SA                                        Biển Đông       Thế Giới     Tin trong nước      Sử Việt       UFO      Chuyện Lạ      Gia Đình;

Thứ Ba, 8 tháng 7, 2014

Nguyễn Huệ ba lần cầu hiền tài giúp sức

 Vì chưa hiểu rõ lắm về phong trào Tây Sơn và cá nhân Nguyễn Huệ,  Nguyễn Thiếp còn gọi ông là "đại nguyên soái quý quốc", tức người nước khác.
Nguyễn Thiếp là một danh sĩ cuối đời Hậu Lê và Tây Sơn. Ông là người đã thảo kế sách phục hưng văn hóa và giáo dục nước nhà, lấy chữ Nôm làm ngôn ngữ chính thống.
Nhường trạng nguyên cho người khác


Vào cuối đời Hậu Lê trên núi Thiên Nhẫn xứ Nghệ Tĩnh xuất hiện một cụ già tóc bạc, râu dài ẩn cư. Cụ sống trong một túp nhà tranh đơn sơ dựa bên vách núi. Mấy chú tiều phu đi lấy củi thỉnh thoáng gặp cụ vào rừng hái thuốc hoặc ra bờ suối ngồi câu cá. Cụ rất ít giao du, nhưng tiếng tăm của cụ vẫn lan truyền đi xa, nhiều kẻ sĩ muốn tìm gặp, nhưng cụ đều lảng tránh.
Người ta gọi cụ bằng nhiều tên lắm. Nào là Điền Ẩn, Cuồng Ẩn hay Lam Hồng dị nhân, nghĩa là những người kì dị, điên khùng đi ở ẩn. Hình như cụ tự đặt cho mình tên hiệu là Khải Xuyên, Hạnh Am, Lạp Phong cư sĩ, Hầu Lục Niên. Các nhà nho, kẻ sĩ đương thời thì gọi cụ một cách tôn kính là Lục Niên tiên sinh, La Giang phu tử, La Sơn phu tử...
Cụ già ở ẩn ấy tên thật là Nguyễn Thiếp, quê ở xã Nguyệt Ao, tổng La Sơn, phủ Đức Quang (nay thuộc Hà Tĩnh). Cụ vốn con nhà dòng dõi thi thư, thuở nhỏ được chú là Tiến sĩ Nguyễn Hành kèm cặp, học hành giỏi giang. Năm 20 tuổi đi thi Hương đỗ thủ khoa, nhưng không ra Bắc thi tiếp. Về chuyện này có một giai thoại lí thú.
Hôm chàng cống sinh bước lên đò Phá Thạch lên đường đi thi Hội thì gặp người lái đò. Người lái đò tỏ ra vui mừng kể lại rằng, đêm qua ông mơ thấy có vị thần hiện ra mách bảo sớm mai sẽ có một vị Trạng nguyên sang đò. Từ sáng đến giờ chưa có ai qua lại, đến bây giờ ông mới thấy Nguyễn Thiếp sang đò đi thi, chắc hẳn người này sẽ đỗ Trạng. Nghe vậy, Nguyễn Thiếp bảo:
- Ta nghe nói làm văn sách phải xưng tụng chúa Trịnh mới đỗ được. Ta không chịu xưng tụng thì đỗ làm sao? Thần đã báo mộng như vậy thì thôi, ta trở về, nhường Trạng nguyên cho người khác.
Và quả thật Nguyễn Thiếp không đi thi nữa. Do đỗ hương cống (tức cử nhân), ông cũng được cử làm huấn đạo trông coi việc học của huyện Anh Đô, sau lại được bổ chức tri huyện huyện Thanh Chương. Làm quan được ít lâu ông thấy chốn quan trường thối nát, chúa Trịnh lấn át vua Lê, dân tình đói khổ, thuế khóa hà khắc, ông bèn từ quan về quê mở trường dạy trẻ. Sau đó vào núi Thiên Nhẫn ở ẩn nghiên cứu dịch lí, học thuật như đã kể trên đây.
 Tranh minh họa. 
3 lý do không ra làm việc quan
Năm 1786, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ ra Thăng Long diệt họ Trịnh, phù nhà Lê. Ở Thăng Long, ông sai "thư ký" thân tín là Trần Văn Kỷ tìm hiểu nhân tài Bắc Hà để thu dụng sau này. Người đầu tiên được nhắc đến chính là Nguyễn Thiếp, một người đạo cao đức trọng, giỏi kinh luân, am tường dịch lí. Khi trở về dừng chân tại Nghệ An, Nguyễn Huệ lập tức sai hai viên quan cao cấp thuộc bộ Binh và bộ Hình đem thư và lễ vật vàng và lụa đến nơi ẩn cư, mời Nguyễn Thiếp xuống núi để được gặp mặt. Trong thư ông trân trọng gọi Nguyễn Thiếp là "Phu tử", với nghĩa là một người thầy, một nhà hiền triết. Trong thư có đoạn:
"Đã lâu nay nghe tiếng Phu tử, đức tuổi đều cao, kinh luân sẵn có. Chính tôi muốn tới nhà gặp mặt, để thỏa lòng tìm kiếm khó nhọc...".
Bấy giờ chưa hiểu rõ lắm về phong trào Tây Sơn và cá nhân Nguyễn Huệ, Nguyễn Thiếp còn gọi ông là "đại nguyên soái quý quốc", tức người nước khác và nêu ba lí do để từ chối: Một là tài đức thua kém không sánh được với Y Doàn, Khổng Minh; hai là gia đình neo đơn, phải lo việc tế tự; ba là tuổi đã cao, sức đã yếu. Đồng thời ông xin trả lại tặng vật, không dám nhận.
Nguyễn Huệ biết là Nguyễn Thiếp vin cớ không ra, nhưng việc quân, việc nước khẩn cấp ông phải về Phú Xuân ngay.

Vị “Khổng Minh” tài ba của hoàng đế Quang Trung 

Sau khi đồng ý ra giúp triều đình Tây Sơn, Nguyễn Thiếp cũng được tin cậy tìm chọn người hiền tài. 
Về đến Phú Xuân, Nguyễn Huệ vẫn canh cánh trong lòng, bèn cử quan Lưu thủ Nguyễn Văn Phương đem thư đến mời Nguyễn Thiếp với lời lẽ rất trọng thị:
"Phu tử là danh sĩ hơn đời, vì định bụng không chịu cùng quả đức chứng khởi thiên hạ, nên mới nêu ba lẽ không ra. Nhưng nay thiên hạ loạn như thế này, sinh dân khổ như thế này, mà Phu tử nhất định ẩn không ra, thì sinh dân thiên hạ làm sao... Mong Phu tử nghĩ đến thiên hạ với sinh dân, vụt dậy đi ra, để cho quả đức có thầy mà thờ, cho đời này có thầy mà cậy. Như thế mới ngõ hầu khỏi phụ ý trời sinh ra kẻ giỏi".
Nguyễn Thiếp lại viết thư từ chối, nhưng Nguyễn Huệ vẫn không nản. Ngay tháng sau, ông lại cử Thượng thư bộ Hình là Hồ Công Thuyên lên đón Nguyễn Thiếp. Trong thư lần này có đoạn tự nhận khiếm khuyết về phần mình:
"... Mời kẻ hiền, tuy là thành tâm sai sứ đến nhà, nhưng không chịu thân hành đến chào đón. Đối các bực xưa như kẻ chăm chắm ba lần tới đón, như kẻ thành cẩn ba lượt tìm mời thì khác xa...". Sau đó ở đoạn kết, Nguyễn Huệ viết rất chân tình:
"Mong Phu tử soi xét đến tấm lòng thành, vụt dậy mà đổi bụng; lấy lòng vì Nghiêu Thuấn quân dân mà ra dạy bảo, giúp đỡ. Quả đức xin im nghe lời dạy bảo, khiến cho quả đức thỏa được lòng ao ước tìm thầy, và đời này được nhờ khuôn phép của kẻ tiên giáo. Thế thì may lắm lắm".
Nguyễn Thiếp vẫn "kiên trì" khước từ, vì "ốm yếu quanh năm, tự thân không cứu nổi mình thì cứu sao được dân".
Khi quân Thanh kéo vào xâm lược bờ cõi, Nguyễn Huệ đã xưng Hoàng đế, danh chính ngôn thuận đứng ra gánh vác trọng trách cứu nước, cứu dân. Cuộc hành quân cấp tập từ Phú Xuân đến Nghệ An chỉ mất bốn ngày. Dừng chân tại đây để duyệt đội ngũ, một lần nữa vua Quang Trung lại khẩn cầu mời Phu tử đến bàn kế cứu nước. Lần này Nguyễn Thiếp đương nhiên không thể làm ngơ, lập tức xuống núi.
Khi được hỏi kế sách, Nguyễn Thiếp đã tâu bày: "Nay trong nước trống không, lòng người li tán. Quân Thanh ở xa lại, tình hình quân ta sức mạnh sức yếu không biết, thế công thế thủ không hay. Chúa công ra chuyến này chẳng qua mươi ngày là giặc Thanh sẽ tan".
Lời của Nguyễn Thiếp rất phù hợp với ý định của Quang Trung. Và quả nhiên, cuộc kháng chiến chống Thanh đã thắng lợi nhanh chóng đúng như tiên đoán của Phu tử.

 Cảnh Nguyễn Huệ gặp Nguyễn Thiếp bàn việc đại sự trong phim Tây Sơn Hào Kiệt. Ảnh chỉ có tính minh họa.
Làm viện trưởng đầu tiên của Viện Sùng Chính
Sau ngày đại thắng, Quang Trung đã gửi thư cho La Sơn Phu tử, nhắc lại: "Trẫm ba lần xa giá Bắc thành, Tiên sinh đã chịu ra bàn chuyện thiên hạ. Người xưa bảo rằng: Một lời nói mà dấy nổi cơ đồ. Lời Tiên sinh hẳn có thế thật".
Quang Trung cho rước mời Phu Tử vào kinh đô Phú Xuân. Vì tuổi già, Nguyễn Thiếp được nhà vua bằng lòng cho về làm việc ở gần quê nhà. Việc trước nhất là làm chánh chủ khảo cuộc thi Hương đầu tiên của triều Tây Sơn tại Nghệ An năm 1789. Nguyễn Thiếp cũng được tin cậy tìm chọn người hiền tài ra giúp triều đại mới. Sau đó, nhà vua giao cho Phu tử đặc trách về giáo dục như ý nguyện của ông. Năm 1891, nhà vua ban chiếu lập Sùng Chính viện và cử Nguyễn Thiếp làm Viện trưởng. Sùng Chính viện được xây dựng ngay tại quê hương của Phu tử.
Với cương vị này, theo ý chỉ của vua Quang Trung, Nguyễn Thiếp đã bàn thảo kế sách phục hưng văn hóa và giáo dục nước nhà, lấy chữ Nôm làm ngôn ngữ chính thống. Trong một thời gian ngắn, Viện Sùng Chính đã tiến hành dịch các trước tác kinh điển từ tiếng Hán sang chữ Nôm, như các bộ: Tiểu học, Tứ thư (gồm 32 tập) và các bộ Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Dịch...
Dĩ Nguyên

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét