CHI HỘI THƯƠNG BINH TINH NGHĨA 282 lê lợi Liên hệ: 0313840668-0934563996           CHI HỘI THƯƠNG BINH TINH NGHĨA 282 lê lợi Liên hệ: 0313840668-0934563996                   CHI HỘI THƯƠNG BINH TINH NGHĨA 282 lê lợi Liên hệ: 0313840668-0934563996                   TIN TỔNGHỢP                     GIÃ SỬ                         QUÂNSỰ             HOANG SA                                        Biển Đông       Thế Giới     Tin trong nước      Sử Việt       UFO      Chuyện Lạ      Gia Đình;

Thứ Bảy, 3 tháng 8, 2013

Lạ lùng Lý Thánh Tông phong thần cho khúc gỗ

Phong một khúc gỗ làm thần quả là chuyện kỳ lạ ít ai hay trong số nhiều câu chuyện và giai thoại thú vị về hoàng đế Lý Thánh Tông. 
Lý Thánh Tông tên húy là Lý Nhật Tôn, lên ngôi ngày 01 tháng 10 năm Giáp Ngọ (1054), làm vua đến ngày Canh Dần, tháng Giêng năm Nhâm Tý (1072) thì qua đời tại điện Hội Tiên, ở ngôi 18 năm, thọ 49 tuổi. Sử sách đánh giá ông là một trong những vị vua giỏi của triều Lý đã để lại nhiều dấu ấn trên các lĩnh vực chính trị, văn hóa và nông nghiệp, được sử sách đánh giá là vị vua “khéo kế thừa, thực lòng thương dân, trọng việc làm ruộng, thương kẻ bị hình, vỗ về người xa, yên ủi người gần, đặt khoa Bác sĩ, hậu lễ dưỡng liêm, sửa sang việc văn, phòng bị việc võ, trong nước yên tĩnh, có thể gọi là bậc vua tốt” (Đại Việt sử ký toàn thư).
Xung quanh cuộc đời của Lý Thánh Tông có nhiều câu chuyện lạ. Theo chính sử năm Kỷ Dậu (1069), vua thân chinh cùng Thái uý Lý Thường Kiệt mang quân đi đánh Chiêm Thành, chính trong chuyến đi này đã xảy ra hai câu chuyện huyền ảo trên sông biển mà dã sử truyền tụng lại.
Bàn thờ vua Lý Thánh Tông. 
Tương truyền, khi đoàn binh thuyền của Lý Thánh Tông đến cửa biển Thần Phù (nay thuộc xã Yên Lâm, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình) thì gặp gió to sóng dữ, không đi được. Khi đó vua lên bờ thì thấy một toà miếu cổ bên sông cầu đảo, hỏi chuyện dân chúng thì được biết miếu thờ một đạo sĩ có phép thuật cao cường, thời trước giúp vua Hùng vượt biển nên được khi mất, vua Hùng cho lập đền thờ ở cửa biển, phong hiệu là “Áp Lãng Chân Nhân” (người dẹp yên được sóng dữ).

Bí mật khu mộ cổ người Tàu giữa lòng Hà Nội

Đất Hà Nội đúng nghĩa tấc đất tấc vàng. Vậy mà ngay giữa nội thành Thủ đô tồn tại khu mộ cổ của người Phúc Kiến, TQ gần một thế kỷ.
Khu mộ này nằm cạnh con đường Hoàng Hoa Thám (phường Thụy Khuê, quận Tây Hồ, TP Hà Nội).
Năm đời trông coi khu mộ
Cụ Nguyễn Thị Loan (78 tuổi) bán nước bên Xưởng Phim truyện Việt Nam đường Hoàng Hoa Thám bảo, khu mộ này có từ lâu lắm rồi. Cụ được cha ông kể xưa kia Hoàng Hoa Thám đánh thắng quân Tàu, xác quân Tàu được chôn cất tại khu vực này.
Phải rất vất vả chúng tôi mới tiếp cận được khu mộ. Từ phía đầu ngõ 442 đường Hoàng Hoa Thám xuống khu mộ chỉ vài bước chân. Ở đây gần như là một thế giới biệt lập với sự ồn ào vội vã của Hà Nội. Vườn cây rậm rạp bao phủ lên những ngôi mộ ghi tên tuổi những người đã khuất bằng chữ Hán. Gặp chúng tôi trong khu mộ, ông Vũ Đình Phúc (72 tuổi) cho biết: Khu mộ này được thành lập từ những năm 1920, những tấm bia đá, tư liệu cũ của khu mộ ghi: Khu mộ được xây dựng từ đầu thế kỷ XX. Đến năm 1954, chính quyền không cho chôn cất người Hoa ở nơi đây nữa, mà chuyển lên khu nghĩa địa ở Vạn Phúc.
Con ngõ vào khu mộ.  
Bà Nguyễn Thị Thu Hằng, Tổ trưởng Tổ dân phố 44 phường Thụy Khuê xác nhận, khu mộ của người Phúc Kiến, Trung Quốc đã tồn tại từ rất lâu trên địa bàn của phường. Xưa kia những người tỉnh Phúc Kiến sang Việt Nam buôn bán rất nhiều, họ sống lâu đời ở Hà Nội. Chính vì thế, họ đã mua một khu đất nơi đây làm một khu nghĩa trang để chôn cất những người qua đời.

“Trùng tang“: Có phải là mê tín?

Có ý kiến cho rằng, "trùng tang" ra đời từ thực tế của đời sống con người: "Sinh có hẹn tử bất kỳ”...
Để nói về nguồn gốc thì “trùng tang” không phải xuất xứ từ Trung Quốc cổ đại như nhiều ý kiến nhận định mà đây là khái niệm theo GS Ngô Đức Thịnh, Giám đốc Trung tâm Bảo tồn văn hóa tín ngưỡng, Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch là mang màu sắc chung của văn hóa phương Đông nhưng trong đó, mỗi quốc gia vẫn có những cái riêng và những cái riêng ấy, đôi khi cũng ảnh hưởng đến nhau qua các thời kỳ, nghĩa là Trung Quốc có thể ảnh hưởng đến Việt Nam và ngược lại.
Tuy nhiên, nếu áp đặt nó khởi nguồn từ một một quốc gia nào cụ thể thì không chính xác. Cũng như không thể xác định về mặt thời gian trùng tang ra đời năm, tháng… Chỉ biết, trên cơ sở sự ra đời của nhiều quan niệm khác trong tín ngưỡng, bao giờ cũng vậy, trải qua một quá trình lịch sử, có sự trải nghiệm thực tế, hiện tượng mới được đúc kết thành quan niệm rồi đi vào đời sống. Dẫu quan niệm ấy có thể vẫn mơ hồ đến nỗi không thể chạm vào hay gọi thành tên một cách cụ thể. Mà ở đây, trong hiện tượng “trùng tang”, “trùng” ám chỉ linh hồn của người chết hay sự việc “trùng” bắt người khác đi theo (buộc phải cùng chết) không thể nhìn hay sờ thấy được…
 Nơi "nhốt trùng" ở chùa Hàm Long, Bắc Ninh.
Tuy nhiên, theo các nhà nghiên cứu tín ngưỡng, các vấn đề về tâm linh phải như vậy mới “linh”, mới tồn tại trong đời sống tín ngưỡng đến hôm nay và chắc chắn sẽ cả trong tương lai. Bởi suy đến cùng, không có gì cụ thể trong tâm linh theo kiểu “người trần mắt thịt”, chỉ thực thực, hư hư đầy huyền ảo như đúng tên gọi của nó.

Những vụ ám sát chấn động lịch sử Việt Nam (1)

Dù không dài, thời kỳ đầu của công cuộc xây dựng nhà nước tự chủ của người Việt sau giai đoạn Bắc thuộc đầy sóng gió với nhiều cuộc ám sát… 
Dương Đình Nghệ bị phản tướng giết hại
Dương Đình Nghệ (?-937) là một trong những bộ tướng của họ Khúc từ năm 907 – 930. Năm 930, nước Nam Hán đưa quân sang xâm lược nước ta, bắt giữ Tiết độ sứ Khúc Thừa Mỹ và đánh chiếm thành Đại La.
Trước tình hình này, Dương Đình Nghệ đã tập hợp hơn 3.000 binh sĩ dấy quân khởi nghĩa ở châu Ái, dùng Ngô Quyền, Đinh Công Trứ, Kiều Công Tiễn... làm nha tướng.
Tháng 3/931, ông đem đánh đuổi quân Nam Hán, phóng thành Đại La, đập tan quân tiếp viện của kẻ thù và tự lập mình làm Tiết độ sứ, dựng nền độc lập tự chủ cho nước Nam.

 Ảnh minh họa.
Sau thành công này, Kiều Công Tiễn là một danh tướng được Dương Đình Nghệ tin cậy đã đắc ý sinh kiêu và âm mưu phản nghịch. Tháng 4/937, Tiễn cùng với người em ruột là Kiều Thuận lên kế hoạch ám sát Dương Đình Nghệ, chiếm đóng thành Đại La và nắm quyền trị nước. 

Những vụ ám sát chấn động lịch sử Việt Nam (2)

Trong thời kỳ phong kiến tự chủ của Việt Nam, nhiều vị vua chúa và các bậc khai quốc đã trở thành nạn nhân của những âm mưu chính trị nơi cung cấm…
Thảm án Lệ Chi Viên: Ai đã sát hại vua Lê Thái Tông?

Theo chính sử Việt Nam, vào một ngày tháng 7/1442, vua Lê Thái Tông đi tuần ở miền Đông, duyệt quan ở thành Chí Linh, Hải Dương. Nguyễn Trãi đón vua ngự ở chùa Côn Sơn, nơi ở của Nguyễn Trãi. Sau đó ít lâu, vua về đến Lệ Chi Viên thuộc huyện Gia Định. Cùng đi với vua có Nguyễn Thị Lộ, một người thiếp của Nguyễn Trãi khi ấy đã vào tuổi 40. 

143 NĂM VƯƠNG TRIỀU NGUYỄN (1802-1945)

  Triều Nguyễn - triều đại Phong kiến cuối cùng ở Việt Nam, đã tồn tại trong suốt hơn 143 năm (1802-1845) với 13 đời vua Nguyễn. Thông thường các vua Nguyễn sau khi mất, bài vị được đưa vào thờ tại Thế Miếu, có Miếu hiệu ứng với tên của các đỉnh đồng đúc dưới thời Minh Mạng (1835), trừ các vua bị phế truất và các vua bị Pháp đày ra khỏi nước. Riêng vua Dục Đức (phế đế) có Miếu hiệu Cung Tôn Huệ Hoàng đế là do con trai là vua Thành Thái truy phong, nhưng bài vị không được đưa vào thờ tại Thế Miếu. Các vị vua yêu nước Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân vào năm 1959 đã được Hội Đồng Nguyễn Phước Tộc làm lễ và đưa bài vị vào thờ tại Thế Miếu. 
  Dưới đây là những ghi chép vắn tắt về 13 vua Nguyễn:

  1.Vua Gia Long (1802-1819)*
 
  
 
 Vua Gia Long tên là Nguyễn Phúc Ánh (Anh), ngoài ra còn có tên là Chủng và Noãn, con thứ 3 của Nguyễn Phúc Côn (Luân) và bà Nguyễn Thị Hoàn. Nguyễn Phúc Ánh sinh ngày 15 tháng Giêng năm Nhâm Ngọ (8-2-1762).
  Năm 1775, lợi dụng sự suy sụp của triều đình chúa Nguyễn do cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, quân Trịnh vào chiếm Phú Xuân khiến Nguyễn Phúc Ánh phải trốn vào Nam. Từ đó ông bôn tẩu gian nan, tìm đủ mọi cách chiêu tập lực lượng để giành lại vương quyền cho họ Nguyễn.
  Năm 1792, vua Quang Trung mất, quân Tây Sơn ngày càng yếu và quân Nguyễn ngày càng lớn mạnh. Năm 1801, quân Nguyễn do Nguyễn Phúc Ánh chỉ huy đã đánh chiếm Quy Nhơn và chiếm Thuận Hóa.
  Ngày 1-2-1802, Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi Hoàng đế ở Phú Xuân, lấy niên hiệu là Gia Long, chính thức lập nên triều đại nhà Nguyễn. Tháng 3 năm 1804, vua Gia Long đổi quốc hiệu nước ta là Việt Nam .
  Gia Long làm vua được 18 năm (1802-1819), mất vào ngày 19 tháng Chạp năm Kỷ Mão (ngày 3 tháng 2 năm 1820), hưởng thọ 58 tuổi. Sau khi mất, bài vị vua Gia Long được đưa vào thờ ở Thế Miếu và có Miếu hiệu là Thế Tổ Cao Hoàng đế.
  Vua Gia Long có 31 người con (13 con trai và 18 con gái)

  2. Vua Minh Mạng (1820-1840)
 
  
 
 Vua Minh Mạng tên là Nguyễn Phúc Đảm, còn có tên là Kiểu, con thứ 4 của vua Gia Long và bà Nguyễn Thị Đang (Thuận Thiên Cao Hoàng hậu). Ông sinh ngày 23 tháng 4 năm Tân Hợi (25-5-1791) tại làng Tân Lộc, tỉnh Gia Định.
  Vua Minh Mạng lên ngôi vào tháng Giêng năm Canh Thìn (1820), làm vua được 21 năm (1820-1840). Trong thời gian ở ngôi, nhà vua đã có nhiều cải cách quan trọng: cho bỏ các dinh và trấn mà thành lập các tỉnh (cả nước được chia làm 31 tỉnh); định lại quan chế, đặt mức lương bổng của các quan tùy theo ngạch trật; thống nhất việc đo lường và thống nhất y phục; khuyến khích dân khai hoang lập ấp, sửa sang hệ thống giao thông, lập nhà Dưỡng tế ở các tỉnh để giúp đỡ những người nghèo khổ, tàn tật, già cả không nơi nương tựa...
  Đề cao Nho học và khuyến khích nhân tài ra giúp nước là một trong những việc rất được vua Minh Mạng chú trọng. Nhà vua cho lập Quốc Tử Giám, mở thêm kỳ thi Hội và thi Đình (thời Gia Long chỉ có thi Hương).
  Lãnh thổ Việt Nam dưới thời Minh Mạng được mở rộng nhất trong lịch sử và Việt Nam thực sự trở thành một quốc gia hùng mạnh. Vì vậy vào năm 1838, vua Minh Mạng cho đổi tên nước ta là Đại Nam.
  Vua Minh Mạng mất ngày 28 tháng Chạp năm Canh Tý (20-1-1841), hưởng thọ được 50 tuổi. Sau khi mất, bài vị vua Minh Mạng được đưa vào thờ ở Thế Miếu với Miếu hiệu Thánh Tổ Nhân Hoàng đế.
  Vua Minh Mạng có 142 người con (74 con trai, 68 con gái)

  3. Vua Thiệu Trị (1841-1847)
  Vua Thiệu Trị có tên là Nguyễn Phúc Miên Tông, ngoài ra còn có tên là Tuyền và Dung. Ông là con trưởng của vua Minh Mạng và bà Hồ Thị Hoa (Tá Thiên Nhân Hoàng hậu), sinh ngày 11 tháng 5 năm Đinh Mão (16-6-1807) tại ấp Xuân Lộc, phía Đông Kinh Thành Huế.
  Vua Thiệu Trị lên ngôi ngày 20 tháng Giêng năm Tân Sửu (11-2-1841), làm vua được 7 năm (1841-1847), mất ngày 27 tháng 9 năm Đinh Mùi (4-10-1847), hưởng thọ 41 tuổi. Sau khi mất, bài vị nhà vua được đưa vào thờ trong Thế Miếu và có Miếu hiệu Hiến Tổ Chương Hoàng đế.
  Vua Thiệu Trị có 64 người con (29 trai, 35 gái).

  4. Vua Tự Đức (1848-1883)  
  
 
 Vua Tự Đức có tên là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm, ngoài ra còn có tên là Thì. Ông là con thứ 2 của vua Thiệu Trị và bà Phạm Thị Hằng (Hoàng hậu Từ Dũ), sinh ngày 25 tháng 8 năm Kỷ Sửu (22-9-1829).
  Vua Tự Đức lên ngôi tháng 10 năm Đinh Mùi (1847), làm vua được 36 năm (1847-1883), mất ngày 16 tháng 6 năm Quý Mùi (19-7-1883), hưởng thọ 55 tuổi. Sau khi mất, bài vị nhà vua được đưa vào thờ trong Thế Miếu và có Miếu hiệu Dực Tông Anh Hoàng đế.
  Vua Tự Đức không con, ông nhận 3 người cháu gọi bằng chú làm con nuôi là: Nguyễn Phúc Ưng Chân (sau này là vua Dục Đức); Nguyễn Phúc Ưng Đường (sau này là vua Đồng Khánh); Nguyễn Phúc Ưng Đăng (sau này là vua Kiến Phúc).

  5. Vua Dục Đức (1883, 3 ngày)
  Vua Dục Đức tên là Nguyễn Phúc Ưng Ái, là con thứ 2 của Thụy Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Y và bà Trần Thị Nga. Ông sinh ngày 4 tháng 1 năm Quý Sửu (11-2-1853). Năm 1869, lúc 17 tuổi được vua Tự Đức chọn làm con nuôi và đổi tên là Ưng Chân, cho xây Dục Đức Đường để ở và giao cho Hoàng Quý Phi Vũ Thị Duyên (sau này là Lệ Thiên Anh Hoàng hậu) trông coi, dạy bảo.
  Vua Tự Đức mất để di chiếu truyền ngôi cho Ưng Chân, nhưng trong di chiếu có đoạn viết: “... Nhưng vì có tật ở mắt nên hành vi mờ ám sợ sau này thiếu sáng suốt, tính lại hiếu dâm cũng là điều chẳng tốt chưa chắc đã đảm đương được việc lớn. Nước có vua lớn tuổi là điều may cho xã tắc, nếu bỏ đi thì biết làm sao đây.”
  Lúc làm lễ lên ngôi, Ưng Chân đã cho đọc lướt đoạn này nên 3 ngày sau hai Phụ chính Đại thần là Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường đã phế bỏ Dục Đức theo lệnh của Từ Dũ Thái hoàng Thái hậu (mẹ vua Tự Đức) và Lệ Thiên Anh Hoàng hậu (vợ vua Tự Đức).
  Làm vua được 3 ngày chưa kịp đặt niên hiệu (Dục Đức chỉ là tên gọi nơi ở) thì Ưng Chân đã bị phế bỏ và giam vào ngục cho đến khi mất. Ông mất ngày 6 tháng 9 năm Giáp Thân (24-10-1884), thọ 32 tuổi.
  Đến thời vua Thành Thái (con vua Dục Đức) vào năm 1892 đã truy tôn cha mình là Cung Tôn Huệ Hoàng đế.
  Vua Dục Đức có 19 con (11 con trai và 8 con gái).

  6. Vua Hiệp Hòa (1883, 4 tháng).
  Vua Hiệp Hòa tên là Nguyễn Phúc Hồng Dật, còn có tên là Thăng, con thứ 29 của vua Thiệu Trị và bà Đoan Tần Trương Thị Thuận, sinh ngày 24 tháng 9 năm Đinh Mùi (1-1-1847).
  Vua Dục Đức bị phế bỏ, Hồng Dật được đưa lên ngai vàng vào ngày 30 tháng 7 năm 1883, lấy niên hiệu là Hiệp Hòa.
  Do có ý thân Pháp, vua Hiệp Hòa lên ngôi chưa được bao lâu thì bị triều đình Huế phế bỏ và buộc uống thuốc độc tự vẫn vào ngày 30 tháng 10 năm Quý Mùi (29-11-1883).
  Dưới thời Thành Thái vào năm 1891, ông được truy phong là Văn Lãng Quận vương.
  Vua Hiệp Hòa có 17 người con (11 trai, 6 gái).

  7. Vua Kiến Phúc (1883-1884)
  Vua Kiến Phúc tên là Nguyễn Phúc Ưng Đăng, con thứ 3 của Kiên Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai và bà Bùi Thị Thanh. Ưng Đăng sinh ngày 2 tháng Giêng năm Kỷ Tỵ (12-2-1869). Năm 1870 lúc được 2 tuổi, Ưng Đăng được vua Tự Đức nhận làm con nuôi và giao cho bà Học Phi Nguyễn Thị Hương trông coi, dạy bảo.
  Sau khi vua Hiệp Hòa bị phế truất, vào ngày 2-12-1883, Ưng Đăng (15 tuổi) được đưa lên ngôi vua và đặt niên hiệu là Kiến Phúc. Vua Kiến Phúc ở ngôi được 8 tháng thì mất vào ngày 10 tháng 6 năm Giáp Thân (31-7-1884) lúc mới 16 tuổi.
  Sau khi mất, bài vị vua Kiến Phúc được đưa vào thờ trong Thế Miếu và có Miếu hiệu là Giản Tông Nghị Hoàng đế.

  8. Vua Hàm Nghi (1884-1885)*   
  
 
Vua Hàm Nghi tên là Nguyễn Phúc Ưng Lịch, còn có tên là Minh. Ông là con thứ 5 của Kiên Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai và bà Phan Thị Nhàn, sinh ngày 17 tháng 6 năm Tân Mùi (3-8-1871).
  Sau khi vua Kiến Phúc mất, ngày 12 tháng 6 năm Giáp Thân (2-8-1884) Ưng Lịch được đưa lên ngôi vua, đặt niên hiệu là Hàm Nghi lúc mới 14 tuổi.
  Binh biến năm Ất Dậu (5-7-1885) xảy ra, vua Hàm Nghi cùng quần thần ra Tân Sở, phát hịch Cần Vương, phát động phong trào kháng Pháp trên toàn quốc. Quân Pháp nhiều lần kêu gọi nhà vua quay về nhưng thất bại. Ngày 30 tháng 10 năm 1888, tên Trương Quang Ngọc (người hầu của vua) bị Pháp mua chuộc nên đem người bắt vua Hàm Nghi dâng cho Pháp.
  Vua Hàm Nghi bị quân Pháp bắt đi đày ở Algérie vào ngày 13 tháng 1 năm 1889. Nhà vua sống ở đó cho đến lúc mất (4-1-1943), thọ 72 tuổi.
  Vua Hàm Nghi có 3 người con (1 trai, 2 gái).

  9. Vua Đồng Khánh (1886-1888)  
  
 
 Vua Đồng Khánh tên là Nguyễn Phúc Ưng Thị, còn có tên là Đường và Biện. Ông là con trưởng của Kiên Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai và bà Bùi Thị Thanh, sinh ngày 12 tháng Giêng năm Giáp Tý (19-2-1864). Năm 1865 lúc được 2 tuổi, Ưng Thị được vua Tự Đức nhận làm con nuôi và giao cho bà Thiện Phi Nguyễn Thị Cẩm chăm sóc, dạy bảo.
  Sau binh biến năm 1885, vua Hàm Nghi bỏ ngai vàng ra Tân Sở, triều đình Huế thương lượng với Pháp đưa Ưng Đường lên ngôi, đặt niên hiệu là Đồng Khánh.
  Ở ngôi được 3 năm, vua Đồng Khánh bệnh và mất vào ngày 27 tháng 12 năm Mậu Tí (28-1-1889) lúc được 25 tuổi.
  Sau khi mất, bài vị vua Đồng Khánh được đưa vào thờ trong Thế Miếu và có Miếu hiệu là Cảnh Tông Thuần Hoàng đế.
  Vua Đồng Khánh có 10 người con (6 trai, 4 gái).

  10.Vua Thành Thái (1889-1907)   
  
 
Vua Thành Thái tên là Nguyễn Phúc Bửu Lân, còn có tên là Chiêu, con thứ 7 của vua Dục Đức và bà Từ Minh Hoàng hậu (Phan Thị Điểu), sinh ngày 22 tháng 2 năm Kỷ Mão (14-3-1879).
  Vua Đồng Khánh mất, triều đình Huế được sự đồng ý của Pháp đã đưa Bửu Lân lên ngôi vào ngày 1 tháng 2 năm 1889 với niên hiệu là Thành Thái, lúc mới 10 tuổi.
  Vua Thành Thái là người có tư tưởng tiến bộ (cắt tóc ngắn, lái ô tô, xuồng máy) và có tư tưởng chống Pháp. Vì vậy, sau 19 năm ở ngôi, dưới áp lực của Pháp, triều đình Huế lấy cớ nhà vua mắc bệnh tâm thần và buộc phải thoái vị. Sau đó, ông bị Pháp đưa đi an trí ở Vũng Tàu. Năm 1916, ông bị Pháp đem đi đày ở đảo Réunion (Châu Phi).
  Năm 1947, ông được trở về sống ở Sài Gòn cho đến khi mất. Ông mất ngày 9 tháng 3 năm 1955, thọ 77 tuổi.
  Vua Thành Thái có 45 người con (19 trai, 26 gái).
11. Vua Duy Tân (1907-1916)  
  
 
 Vua Duy Tân tên là Nguyễn Phúc Vĩnh San, còn có tên là Hoảng, con thứ 5 của vua Thành Thái và bà Nguyễn Thị Định, sinh ngày 26 tháng 8 năm Canh Tý (19-9-1900).
  Năm 1907, vua Thành Thái thoái vị, triều đình Huế đưa Hoàng tử Vĩnh San lên ngôi, lấy niên hiệu là Duy Tân lúc mới được 8 tuổi.
  Vua Duy Tân là vị vua lên ngôi nhỏ tuổi nhất trong 13 vua Nguyễn. Tuy nhiên nhà vua lại là người chững chạc, có khí phách của một bậc đế vương. Cũng như cha mình, vua Duy Tân là người có tư tưởng chống Pháp. Nhà vua đã cùng với Thái Phiên, Trần Cao Vân... vạch định cuộc nổi dậy chống Pháp vào ngày 3 tháng 5 năm 1916. Nhưng âm mưu bại lộ, nhà vua cùng Thái Phiên và Trần Cao Vân trốn ra khỏi Kinh Thành. 3 ngày sau, vua Duy Tân bị Pháp bắt và bị kết tội rồi đày sang đảo Réunion.
  Nhà vua mất ngày 21 tháng 11 năm Ất Dậu (25-12-1945) trong một tai nạn máy bay khi được 46 tuổi. Nhà vua được an táng tại nghĩa trang Thiên Chúa Giáo M’Baiki, thuộc Cộng Hòa Trung Phi. Ngày 6 tháng 4 năm 1987, nhà vua được cải táng trong khuôn viên của An Lăng (Lăng Dục Đức).
  Vua Duy Tân có 5 người con (3 trai, 2 gái)

  12. Vua Khải Định (1916-1925)  
  
 
 Vua Khải Định tên là Nguyễn Phúc Bửu Đảo, còn có tên là Tuấn, con trưởng của vua Đồng Khánh và bà Dương Thị Thục (Hựu Thiên Thuần Hoàng hậu), sinh ngày 1 tháng 9 năm Ất Dậu (8-10-1885).
  Vua Đồng Khánh mất, Hoàng tử Bửu Đảo còn ít tuổi (4 tuổi) nên không được chọn làm vua. Đến năm 1916, sau khi vua Duy Tân bị Pháp đưa đi đày ở Réunion, triều đình Huế và người Pháp mới lập Bửu Đảo lên ngôi vua vào ngày 18-5-1916, lấy niên hiệu là Khải Định.
  Vua Khải Định ở ngôi được 10 năm thì bị bệnh nặng và mất vào ngày 20 tháng 9 năm Ất Sửu (6-11-1925), thọ 41 tuổi.
  Sau khi chết, bài vị nhà vua được đưa vào thờ trong Thế Miếu và có Miếu hiệu là Hoằng Tông Tuyên Hoàng đế.
  Vua Khải Định chỉ có một con trai là Hoàng tử Vĩnh Thụy (vua Bảo Đại).

  13. Vua Bảo Đại (1926-1945)  
  
 
 Vua Bảo Đại tên là Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy, ngoài ra còn có tên là Thiển. Ông là con độc nhất của vua Khải Định và bà Hoàng Thị Cúc (bà Từ Cung), sinh ngày 23 tháng 9 năm Quý Sửu (22-10-1913).
  Hoàng tử Vĩnh Thụy được đưa sang Pháp học lúc mới 10 tuổi, đến khi vua Khải Định qua đời, ông về Huế lên ngôi vua vào ngày 8 tháng 1 năm 1926, lấy niên hiệu Bảo Đại, đây là vị vua cuối cùng của triều Nguyễn. Sau đó, ông lại tiếp tục sang Pháp học cho đến 8-9-1932 mới trở về Huế.
  Vua Bảo Đại ở ngôi cho đến 30 tháng 8 năm 1945 thì làm lễ thoái vị tại Ngọ Môn, giao chính quyền lại cho Chính phủ Cách mạng Lâm thời.
  Chế độ phong kiến chấm dứt, Bảo Đại sang Pháp và sống hết cuộc đời của vị vua lưu vong ở đó. Ông mất ngày 1 tháng 8 năm 1997 tại Pháp.
  Vua Bảo Đại có 5 người con (2 trai, 3 gái). 

Chuyến đi sứ kỳ lạ nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam

Chuyến đi sứ năm 1790 thời vua Quang Trung đã trở thành chuyến đi sứ độc đáo và kỳ lạ bậc nhất trong lịch sử bang giao Việt Nam - Trung Quốc.

Trong hành trình kéo dài gần hai năm trời, đoàn sứ phò tá vua Quang Trung giả (Phạm Công Trị đóng) sang mừng thọ vua Càn Long được mô tả sinh động trong tập thơ "Tinh Sà Kỷ Hành" của ông Phan Huy Ích - một Phó sứ trong đoàn. Đây là cuốn nhật ký bằng thơ độc đáo, với nhiều thông tin quý báu, mang đến góc nhìn mới về chuyến đi sứ "mạo hiểm" nhưng đầy vẻ vang của lịch sử bang giao thời phong kiến.
Bình thản “qua mặt” triều đình Mãn Thanh
Vào một buổi sáng đầu hè nắng như đổ lửa, tôi trên đường về Sài Sơn - Quốc Oai, Hà Nội, để thăm khu nhà thờ của dòng họ Phan Huy (một dòng họ nổi danh về khoa bảng, có những người con kiệt xuất của dân tộc như Phan Huy Ích, Phan Huy Chú...) - một di tích lịch sử cấp quốc gia. May mắn cho tôi, chuyến đi hôm đó đã được những hậu duệ của các danh nhân văn hóa dân tộc đón tiếp rất thân tình. Cuộc tiếp chuyện khiến chúng tôi vô cùng bất ngờ vì đã khám phá được nhiều tư liệu quý, gắn liền với những kiện lớn trong lịch sử dân tộc, đặc biệt là lịch sử bang giao của Việt Nam triều đại Tây Sơn.
Cụ Phan Huy Ích. Ảnh tư liệu.