CHI HỘI THƯƠNG BINH TINH NGHĨA 282 lê lợi Liên hệ: 0313840668-0934563996           CHI HỘI THƯƠNG BINH TINH NGHĨA 282 lê lợi Liên hệ: 0313840668-0934563996                   CHI HỘI THƯƠNG BINH TINH NGHĨA 282 lê lợi Liên hệ: 0313840668-0934563996                   TIN TỔNGHỢP                     GIÃ SỬ                         QUÂNSỰ             HOANG SA                                        Biển Đông       Thế Giới     Tin trong nước      Sử Việt       UFO      Chuyện Lạ      Gia Đình;

Thứ Năm, 23 tháng 5, 2013

Tần Thủy Hoàng từng gặp người ngoài hành tinh?

Cách đây hơn 200 năm, một trong những văn bản cổ xưa nhất nói đến người ngoài hành tinh phải kể đến cuốn “Thập Di ký” của Trung Quốc. Trong cuốn sách này có nhắc tới một chi tiết khá quan trọng về lần tiếp xúc gặp gỡ giữa người ngoài hành tinh và Tần Thủy Hoàng.
Vạn lý trường thành do người ngoài hành tinh xây dựng? 
 Tại hồi 41 cuốn“Thập di ký” có ghi lại rằng: “Có một tộc người lạ, thân hình như xoắn ốc, khi dìm xuống nước cũng không chìm. Tộc người này cao tới 10 thước (khoảng 2,3 m), phía bên ngoài được phủ một lớp như lông chim. Họ có một năng lượng đặc biệt là tự phát sáng vào buổi tối. Chỉ cần học lắc mình nhẹ là lập tức có rất nhiều nguồn sáng phóng ra từ thân thể họ”. 
Đoạn trích dẫn trên được lấy từ cuốn“Thập Di ký” có từ thời Tần Thủy Hoàng vào năm 259 TCN – 210 TCN. Cũng trong đoạn trích dẫn này có viết: “Tần Thủy Hoàng đã đối xử rất cởi mở với tộc người này, thậm chí hoàng đế còn coi họ như những người thân thích. Khi được hỏi đó là ai? Tần Thủy Hoàng chỉ trả lời một câu duy nhất là: Đó là các vị thần”. Đoạn trích dẫn trong cuốn sách trên đã gây nhiều tranh cãi trong giới khoa học của Trung Quốc. Nhiều người đã đặt câu hỏi: Vậy tộc người lạ đó là ai ?
Từ xa xưa, trong giới khoa học của Trung Quốc đã tranh cãi về việc có phải chính Tần Thủy Hoàng xây dựng Vạn Lý trường thành hay không? Nhiều người cho rằng, với trang thiết bị lạc hậu và sức người hồi ấy không thể xây dựng nổi một công trình vĩ đại như vậy.
 “Chúng tôi cho rằng khoa học kỹ thuật thời xưa không thể nào làm được việc chọn địa điểm xây dựng Vạn lý Trường thành, vì tuyến đã chọn của nó quá ư phù hợp với yêu cầu của các đới địa tầng đứt gãy- thứ mà chỉ có khoa học hiện đại mới thực hiện được”- một nhà khoa học cho biết. Theo ông này chính người ngoài hành tinh đã giúp Tần Thủy Hoàng tạo nên một trong những công trình vĩ đại nhất trong lịch sử loài người: Vạn Lý trường thành. Cũng từ nhận định của nhà khoa học này mà nhiều người khác đã khẳng định rằng, tộc người được nhắc tới trong cuốn “Thập di ký” chắc chắn là người ngoài hành tinh(?).
Cũng theo giải thích của một số người, Tần Thủy Hoàng là một vị hoàng đế vĩ đại. Vì thế việc tận dụng được sức vóc của người ngoài hành tinh nhằm đạt được mục đích của mình là không khó. Tuy nhiên đối với một số nhà khoa học thì lời giải thích này quá... hoang tưởng. “Không thể chấp nhận nổi cách giải thích như vậy, tuy nhiên chúng tôi vẫn chưa tìm ra được câu trả lời chính xác cho đối tượng có tên là tộc người lạ trong cuốn Thập di ký. Đó vẫn là một điều bí mât cho tới tận bây giờ”- Một nhà khoa học khác ở Trung Quốc cho biết.
Công nghệ thế kỷ 20 đã có từ 2000 năm trước ?

Chủ Nhật, 19 tháng 5, 2013

Nền kinh tế Trung Quốc đang đứng bên bờ sụp đổ

“Nền kinh tế Trung Quốc chưa bao giờ cất cánh, do đó sẽ chẳng có chuyện gì gọi là hạ cánh cả. Quả thật vậy, nền kinh tế Trung Quốc giống như một con tàu siêu tốc không thể điều khiển được nữa và nó có thể trật bánh bất cứ lúc nào”.
>> Trung Quốc: Cảnh sát say xỉn tông chết người, cấm xe cấp cứu
>> Clip bé 2 tuổi bị ô tô đâm, người qua đường thờ ơ
>> Nạn mổ cắp nội tạng lan tràn ở Trung Quốc
>> Biểu tình bạo loạn vì thuế ở Trung Quốc


Nền kinh tế Trung Quốc đang đứng bên bờ sụp đổ - Tin180.com (Ảnh 1)
Một phiên bán đấu giá đất tại Nam Kinh, tỉnh Giang Tô Trung Quốc

Các nhà kinh tế học Trung Quốc cho hay nền kinh tế Trung Quốc đang đi trên một con đường nguy hiểm và sẽ sớm phải trải qua một cuộc khủng hoảng còn nghiêm trọng hơn cả khủng hoảng nợ của châu Âu.

Kể từ khi chính phủ Trung Quốc tiến hành triển khai một loạt các chính sách "thắt chặt" nhằm kìm hãm thị trường bất động sản, giá cả nhà ở trong cả nước đều đã và đang giảm đáng kể. Trong khi đó, doanh thu từ việc bán đất – nguồn thu chính của các chính quyền địa phương – cũng đã giảm rõ rệt.

Vào cuối tháng 10, một số doanh nghiệp nhà đất Thượng Hải đã bất ngờ giảm từ 20 đến 40% giá nhà ở trong những khu xây dựng mới. Ngay sau đó, việc giảm giá này cũng lan rộng đến Bắc Kinh, Hàng Châu và Ninh Ba ở tỉnh Chiết Giang và Nam Kinh ở tỉnh Giang Tô. Những người mới mua nhà gần đây, thấy mình không may mắn vì những đầu tư của họ đột ngột bị mất giá, đã tổ chức kháng nghị đòi trả lại tiền.

Chấm dứt những khoản lợi nhuận khổng lồ

Một nhà phân tích làm việc tại Trung tâm nghiên cứu bất động sản Centaline Trung Quốc ở Thượng Hải đã chia sẻ với tờ Thời báo Đại Kỷ Nguyên rằng: "Việc giảm giá ở Thượng Hải mới chỉ là sự khởi đầu, thời gian tồi tệ nhất sẽ là mùa xuân năm tới." Ông còn cho biết thêm rằng đến thập kỷ tới, thời kì của lợi nhuận khổng lồ của bất động sản sẽ không còn nữa.

Trong những sự kiện khác gần đây, nhà kinh tế học Xie Guozhong đã khẳng định rằng "Nếu Trung Quốc tiếp tục áp dụng chính sách tiền tệ thắt chặt này, nhiều doanh nghiệp bất động sản sẽ bị phá sản" và "việc giảm 50% giá trị bất động sản trong tương lai sẽ là một quy chuẩn ở Trung Quốc."

Ông Xie cho biết, lượng dư thừa lớn số nhà ở chưa bán được sẽ chỉ có thể được thị trường tiêu thụ khi giá cả giảm xuống đến mức mà những người mua nhà lần đầu tiên có thể chi trả được, điều đó có nghĩa là sẽ giảm giá đáng kể.

Hạ nhiệt thị trường đất đai

Trên khắp Trung Quốc, việc bán đất của chính phủ cũng đã được hạ nhiệt và do đó, thu nhập của chính quyền địa phương từ việc bán đất đã giảm đột ngột. Thành phố Chu Hải ở tỉnh Quảng Đông là một ví dụ.

Theo tờ Southern Metropolis Daily (Nhật báo Đô thị phương Nam), những dữ liệu do Sở tài chính thành phố Chu Hải đưa ra đã cho thấy rằng phí chuyển nhượng đất đai trong 3 quý đầu tiên của năm nay đã giảm một cách đáng kể. Trước đó, ước tính đạt được 8,8 tỷ nhân dân tệ (1,4 tỷ đô la Mỹ), Sở tài chính đã điều chỉnh xuống còn 5 tỷ nhân dân tệ (788,65 triệu đô la Mỹ) tức là giảm 3 tỷ nhân dân tệ (473,2 triệu đô la Mỹ)

Theo một phân tích khác của tờ báo First Financial Daily, doanh thu từ việc bán đất ở thành phố Chu Hải trong 10 tháng đầu năm 2010 đạt 20,39 tỷ nhân dân tệ (3,22 tỷ đô la Mỹ), chiếm 24% GDP của thành phố và tăng 14 lần so với năm trước. Trái lại, doanh thu đất đai trong 10 tháng đầu năm 2011 chỉ vừa bằng một nửa con số đó.

Ngày 1 tháng 11, thành phố này đã bắt đầu triển khai một hạn chế mới trong việc mua bán và giá cả nhà ở. Rất nhiều doanh nghiệp cho rằng đây chính là ngòi kích hoạt cho một làn sóng giảm giá bất động sản mới.

Khủng hoảng tài chính sắp xảy ra

Ông Cheng Xiaonong, nhà kinh tế học làm việc tại trụ sở ở Hoa Kỳ chia sẻ với thời báo Đại Kỷ Nguyên rằng giá nhà ở giảm 30% trong một thời gian ngắn chính là dấu hiệu cho thấy khủng hoảng tài chính sắp tấn công Trung Quốc.

Ông Cheng cho biết: "Khi bong bóng nhà đất nổ tung và những nhà phát triển phá sản, các ngân hàng sẽ phải vật lộn với lãi suất mặc định cao và những món nợ xấu, gây ra một cuộc khủng hoảng tài chính trong cả hệ thống ngân hàng."

Ông Cheng cho hay trong vòng 1 năm tới, Trung Quốc sẽ phải trải qua một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng hơn cả cuộc khủng hoảng nợ châu Âu. Ông nói: "Thực ra thì một cuộc khủng hoảng tài chính đã nổ ra ở Trung Quốc rồi".

Ông Chen Zhifei, giáo sư kinh tế của trường Đại học thành phố New York chia sẻ với Đài truyền hình Tân Đường Nhân rằng việc giảm nhanh chóng cả giá nhà ở và đất đai sẽ dẫn đến doanh thu bán đất của chính quyền địa phương giảm đi rõ rệt và các chính quyền địa phương sẽ bù phần thiếu hụt ấy bằng việc đánh thuế.

Ông Cheng nói rằng việc đánh thuế như vậy sẽ dẫn đến các cuộc biểu tình lớn và bất ổn xã hội như chúng ta đã được chứng kiến gần đây ở Hồ Châu, tỉnh Chiết Giang ở miền Đông Trung Quốc nơi diễn ra một cuộc biểu tình lớn chống thuế thu hút sự chú ý của toàn thế giới.
Nền kinh tế Trung Quốc đang đứng bên bờ sụp đổ - Tin180.com (Ảnh 2)
Hàng nghìn người tham gia vụ bạo loạn ở Hồ Châu. Ảnh: Weibo

Nhà kinh tế học và cũng là một tác giả, He Qinglian đã nói với tờ Thời báo Đại Kỷ Nguyên rằng bong bóng bất động sản Trung Quốc lẽ ra đã nổ tung từ năm 2008. Nhưng khi đó, chính quyền Trung Quốc đã đưa ra gói kích cầu giá trị 4 nghìn tỷ nhân dân tệ (630,93 tỷ đô la Mỹ) để cứu lấy nền kinh tế và một nửa số tiền đó dành cho thị trường bất động sản và các lĩnh vực liên quan, nhờ đó đã trì hoãn thời gian nổ tung của bong bóng bất động sản này.

Bà He nói: "Việc bong bóng nổ tung vào thời điểm hiện tại, thiệt hại do nó gây ra và tác động tiêu cực của nó đối với nền kinh tế Trung Quốc làm cho chính quyền Trung Quốc gặp khó khăn hơn nhiều khi giải quyết bây giờ."

Bà He cho hay vụ nổ bong bóng này cũng đem đến cho nền kinh tế Trung Quốc một cơ hội để điều chỉnh cơ cấu kinh tế và các chính quyền địa phương nên thắt lưng buộc bụng kể từ khi doanh thu bán đất giảm sút.

Bà nói thêm "tuy nhiên, họ sẽ tăng thuế để tăng thu nhập của họ, và nền kinh tế Trung Quốc do đó sẽ chẳng bao giờ đi đúng đường".

Bà He nói rằng sự phát triển của nền kinh tế Trung Quốc chỉ là một sự thịnh vượng giả tạo với cái giá phải trả là sự hủy hoại môi trường và các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Là công xưởng của thế giới, Trung Quôc không hề có những sản phẩm mang nhãn hiệu của riêng mình. Thêm vào đó, Trung Quốc lại phụ thuộc nặng nề vào các mặt hàng xuất khẩu phục vụ cho nhu cầu năng lượng và có rất ít tài nguyên thiên nhiên để có thể xuất khẩu ngoại trừ những kim loại đất hiếm. Hơn nữa, với dân số nông dân đông nhất trên thế giới, Trung Quốc lại không thể duy trì tự cung tự cấp trong sản xuất lương thực.

Về một số ý kiến của các nhà kinh tế cho rằng thị trường bất động sản sụp đổ sẽ dẫn đến nền kinh tế Trung Quốc "hạ cánh bắt buộc", bà He cho biết: "Nền kinh tế Trung Quốc chưa bao giờ cất cánh, do đó sẽ chẳng có chuyện gì gọi là hạ cánh cả. Quả thật vậy, nền kinh tế Trung Quốc giống như một con tàu siêu tốc không thể điều khiển được nữa và nó có thể trật bánh bất cứ lúc nào".
(Theo The Epoch Times)

Hoa Kỳ có chính sách cứng rắn hơn với Trung Quốc

Một số chuyên gia cho rằng việc Hoa Kỳ tăng cường mối quan hệ quân sự với Australia nhằm tạo ra thế đối trọng trước sự trỗi dậy của Trung Quốc.

Hoa Kỳ có chính sách cứng rắn hơn với Trung Quốc - Tin180.com (Ảnh 5)
Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama phát biểu trước quốc hội Australia hôm thứ Năm 17/11. (ABC)
Trong buổi họp báo tại thủ đô Canberra (Australia) vào ngày 16/11, Tổng thống Barack Obama tuyên bố một thỏa thuận song phương mới giữa Hoa Kỳ và Australia, theo đó, trong vòng 5 năm tới, 2.500 thủy quân lục chiến Mỹ sẽ đồn trú ở Darwin, phía Bắc Australia.
Ngoài ra, Mỹ sẽ tăng cường sử dụng sân bay quân sự Tindal của Australia để làm căn cứ cho máy bay chiến đấu, trong đó có máy bay B52.
Tổng thống Obama cũng cam kết việc Mỹ cắt giảm ngân sách quân sự sẽ không ảnh hưởng tới kế hoạch tăng cường quân đội nước này tại khu vực Châu Á-Thái Bình Dương.
Phản ứng của các nước
Một số nhà phân tích cho rằng việc Hoa Kỳ mở rộng vai trò ở Châu Á – Thái Bình Dương có thể khiến Trung Quốc cảm thấy bất an.
Phát Ngôn viên của chính phủ Trung Quốc Lưu Vi Dân cho rằng thỏa thuận mới giữa Australia và Mỹ là điều không phù hợp, đồng thời nhấn mạnh Trung Quốc chưa từng thành lập một liên minh quân sự như vậy.
Theo ông Lưu Vi Dân, Trung Quốc giữ quan điểm hợp tác trong tinh thần thân hữu với tất cả các nước trong vấn đề quân sự, tích cực đẩy mạnh tiến trình hòa bình và kêu gọi các nước khác có hành xử tương tự.
Indonesia cũng bày tỏ mối quan ngại về kế hoạch đồn trú tại phía Bắc Australia của thủy quân lục chiến Mỹ.
Ngoại trưởng Indonesia Marty Natalegawa cảnh báo động thái này của Mỹ có thể gây ra những tác động tiêu cực, vì thế, Mỹ cần minh bạch kế hoạch để tránh hiểu nhầm.
Tuy nhiên, Phó Thủ tướng Australia Wayne Swan lại có quan điểm trái ngược và cho rằng Bắc Kinh không nên quan ngại về việc Caberra và Washington củng cố mối quan hệ đồng minh.
Trước đó, Tổng thống Obama từng bác bỏ quan điểm cho rằng Mỹ đang lo sợ và tìm cách loại trừ Trung Quốc. Theo ông Obama, Mỹ hoan nghênh sự trỗi dậy một cách hòa bình của quốc gia này.
Ý kiến chuyên gia
Giáo sư Jia Qingguo thuộc Khoa Nghiên cứu Quốc tế, Đại học Bắc Kinh, cho hay chính phủ Australia đã tỏ ra thiếu khôn ngoan khi củng cố liên minh quân sự với Mỹ bởi điều đó không giúp ích cho nền an ninh Australia mà còn có thể gây ra căng thẳng trong mối quan hệ giữa nước này với Trung Quốc.
Giáo sư Su Hao, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Châu Á – Thái Bình Dương thuộc Đại học Ngoại giao Trung Quốc (Bắc Kinh), nhận định việc Hoa Kỳ tăng cường quan hệ quân sự với Nhật Bản và Australia thể hiện mục tiêu của nước này trong việc tạo ra thế đối trọng với Trung Quốc.
Theo hãng tin Reuters, ông Rory Medcalf, chuyên gia về vấn đề an ninh tại Học viện Lowy (Australia), cho hay động thái mới nhất của Hoa Kỳ cho thấy nước này đang có chính sách cứng rắn hơn đối với Trung Quốc.
theo ABC/Reuters/bayvu

Ông Chen Baihe chết vì bị đầu độc trong nhà tù Jidong?

Ông Chen Baihe, 59 tuổi, đã bị bỏ tù 4 năm vì theo tập và giải thích sự thật về Pháp Luân Công, mặc dù Hiến pháp Trung Quốc tuyên bố rằng các công dân có quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo và ngôn luận.
Khi ông được trả tự do vào tháng 5 năm 2010, gia đình ông phát hiện nhiều dấu hiệu đáng lo ngại về sức khỏe của ông, bao gồm mắt lờ đờ, ít nói, thường xuyên mệt mỏi và buồn ngủ, phản ứng chậm, mất trí nhớ, lơ đãng, chân yếu, và các nốt đỏ trên ngực còn lưng thì đen.  Ông Chen gần như bị mất hoàn toàn trí nhớ 2 tháng trước khi chết.  Ông nói lắp bắp và mắt phải hầu như không còn nhìn thấy gì.
Ông Chen ngã gục xuống vào khoảng 6 giờ sáng, ngày 17 tháng 9 năm 2012.  Ông bị bất tỉnh trong 22 tiếng đồng hồ và bị sốt cao trước khi tắt thở.  Hai tiếng sau khi chết, mặt, hai tai và các móng tay của ông chuyển sang màu tím xanh.  Máu đỏ thẫm chảy ra khỏi miệng.  Khi thi thể ông được hỏa thiêu, nhân viên lò hỏa táng đã sốc khi thấy rằng tro của ông đen như than củi.  Họ nói rằng “Trời ơi, xương ông ấy đen quá.  Hẳn là ông đã bị đầu độc!”
陈百合去世时脸部都变成了青紫色
Mặt ông Chen chuyển sang màu tím xanh sau khi chết
陈百合的骨灰成黑炭色
Tro ông Chen đen như than củi
Ông Chen rất khỏe mạnh trước khi bị bỏ tù.  Ông bị bắt hôm 13 tháng 5 năm 2006, trong khi đi phát các tư liệu sự thật về Pháp Luân Công.  Ông bị kết án 4 năm tù mặc dù Điều 35 của Hiến pháp Trung Quốc cho công dân quyền tự do ngôn luận.  Ông Chen bị đưa đến nhà tù Jidong hôm 16 tháng 4 năm 2007.  Huyết áp của ông tăng lên đến 180-200.  Bệnh viện nhà tù đã kê đơn thuốc hạ huyết áp, nhưng thuốc đã không cải thiện được tình trạng của ông.  Thực tế, ông Chen bị phát ngứa rất kỳ lạ khắp thân thể.  Ông bắt đầu mất thị lực, đặc biệt là ở mắt phải.  Ông đã mất hoàn toàn thị lực vào mùa Hè năm 2009.
陈百合生前照片
Ông Chen Baihe
Ông Chen bắt đầu tập Pháp Luân Công năm 2005, sau khi vợ ông theo tập. Vợ ông, bà Zhang Guilan, trước kia từng bị rất nhiều bệnh khác nhau.  Các vấn đề sức khỏe mãn tính đã đem lại cho bà tính cáu giận.  Bà thường xuyên gây sự với chồng con.  Bà bắt đầu tập Pháp Luân Công năm 1998, và trở nên khỏi tất cả bệnh tật trong chưa đầy 6 tháng.  Bà cũng trở nên hòa đồng và rộng lượng hơn.  Ông Chen rất vui về những biến đổi của vợ, nên đã rất ủng hộ Pháp Luân Công.  Bà Zhang đã bị bắt và bỏ tù nhiều lần vì tập Pháp Luân Công sau năm 1999, khi Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) bắt đầu đàn áp Pháp Luân Công.  Chính quyền địa phương cũng nhiều lần sách nhiễu và lục soát nhà họ.  Vào tháng 4 năm 2002, trong khi ông Chen đến thăm vợ ở trại giam huyện Qianxi, ông bị bắt gặp đang đưa các tư liệu Pháp Luân Công cho bà nên ông bị bắt giam 15 ngày và phạt 4000 nhân dân tệ.
Khi ông Chen đang đi phát tư liệu sự thật về Pháp Luân Công ở xã Yuhuzhai, huyện Qianxi hôm 13 tháng 5 năm 2006 thì cảnh sát địa phương và công an huyện Qianxi bắt giữ ông.  Tòa án huyện Qianxi đã kết án ông 4 năm tù vào tháng 1 năm 2007.  Gia đình ông kháng án tại Tòa trung thẩm thành phố Đường Sơn, nhưng tòa vẫn giữ nguyên bản án.  Sau đó ông Chen bị đưa đến nhà tù Jidong.
Bà Zhang và con gái đến thăm ông ở trong tù vào giữa tháng 7 năm 2009.  Họ thấy mắt ông rất lạ và được biết rằng ông đã mất thị lực ở mắt trái.  Mắt phải cũng đã bắt đầu mờ.  Ông cũng bị huyết áp cao những nhà tù chưa bao giờ thông báo cho gia đình ông về những vấn đề sức khỏe này.
Bà Zhang đã gọi điênh cho ban giám đốc nhà tù bao gồm He Lizhi và Xu Ziqiu để yêu cầu thả ông ra vì lý do y tế.  Họ nói họ phải khám sức khỏe ông để xem ông có được thả không.  Khi bà Zhang gọi lại 2 ngày sau đó, họ chỉ nói rằng ông Chen không đạt tiêu chuẩn để thả và gác máy.
Gia đình ông Chen đến cơ quan quản lý nhà tù ở xã Jiantuozi, huyện Fengnan, để yêu cầu thả ông vì lý do y tế.  Họ gặp giám đốc Zhao và ông này hứa sẽ yêu cầu nhà tù kiểm tra sức khỏe một lần nữa.  Bà Zhang liên hệ lại với giám đốc Zhao một tuần sau đó nhưng bà được thông báo là nếu như ông Chen bị mù cả hai mắt thì mới được thả.  Khi được hỏi điều gì sẽ xảy ra nếu thị lực của ông Chen bị giảm thêm nữa, ông Zhao nói rằng nó sẽ không giảm nhanh như vậy và rằng bệnh viện của nhà tù sẽ có thể phẫu thuật cho ông Chen nếu cần.
Khi bà Zhang đến thăm chồng ở nhà tù lần tiếp theo hôm 4 tháng 12 năm 2009, bà lại yêu cầu thả ông.  Tuy nhiên, nhà tù từ chối không cho bà gặp ông và nói rằng việc thăm nuôi sẽ bị hoãn cho đến khi mùa cúm qua đi.  Một nữ gác ngục bảo bà Zhang nói chuyện với người giám sát ông Chen – đội trưởng đội 5 có tên Li.  Li bảo bà Zhang là bác sĩ xác nhận rằng ông Chen cần được phẫu thuật mắt, nhưng ông Chen không muốn phẫu thuật ở trong tù.
Bà Zhang yêu cầu thả ông ra.  Li nói rằng họ đang đối xử với ông như thể ông đã được thả.  Li bảo bà Zhang rằng ông Chen không bị bắt làm việc nặng nào và ông chỉ phải quét phòng.  Li nói thêm rằng họ đã làm một bản báo cáo về tình trạng của ông Chen nhưng thủ tục thả rất phức tạp, đặc biệt là đối với những người tập Pháp Luân Công.  Li nói ông Chen có thể sẽ mãn hạn tù vào lúc ông được thả ra.
Bà Zhang nói, “Anh không cho tôi gặp ông ấy và cũng không thả ông ấy ra.  Ai sẽ chịu trách nhiệm nếu tính mạng của ông ấy gặp nguy hiểm?”  Bà đến gặp giám đốc Zhao một lần nữa, nhưng ông này nói rằng ông Chen không đủ điều kiện để được thả.  Đội 5 phải có yêu cầu thì ông ấy mới duyệt được.
Ông Chen chỉ được thả sau khi mãn hạn tù.
Có nhiều báo cáo rằng các nhà tù và trung tâm cưỡng bức tẩy não đã tiêm các loại thuốc hủy diệt hệ thần kinh trung ương vào những người theo tập Pháp Luân Công.  Có các cáo buộc rằng thuốc độc được bỏ vào đồ ăn thức uống của các học viên Pháp Luân Công nhưng không làm họ chết ngay mà chỉ chết sau đó nhiều tháng hoặc hàng năm sau đó.
(Theo Minghui.org)

Chủ Nhật, 28 tháng 4, 2013

Toàn cảnh cuộc đối đầu lịch sử Việt – Mỹ 1954-1975 (Kỳ 2)


Kỳ 2: Con đường gian nan đến ngày toàn thắng

Trong lịch sử hàng ngàn năm chống ngoại xâm, trước khi có cuộc đụng độ lịch sử với Hoa Kỳ, dân tộc Việt Nam đã từng đứng trước 3 kẻ khổng lồ có sức mạnh vô địch, áp đảo và vô cùng tàn bạo, tưởng chừng không thể chống đỡ nổi: 10 năm chống quân đội Tần Thủy Hoàng (218 TCN-208 TCN), ba lần chống quân Mông Cổ (1257-1258, 1284-1285, 1287-1288), 96 năm chống thực dân Pháp (1858-1954).


Quân Tần cực kỳ tinh nhuệ, được xem là đội quân vô địch trong thời điểm đó. Họ gồm thâu 6 nước, thống nhất Trung Hoa, sau đó đem quân Nam tiến, lần lượt chinh phạt thành công các tộc Bách Việt, sau đó tiến đến lãnh thổ Âu Việt. Người Âu Việt dưới sự lãnh đạo của Thục Phán và Dịch Hu Tống, lui vào rừng núi tiến hành chiến tranh du kích và chống trả kiên cường. Sau 10 năm chinh chiến, tình trạng quân Tần lúc này theo sách cổ Sử Ký của Tư Mã Thiên mô tả là: “Đóng binh ở đất vô dụng. Tiến không được, thoái không xong. Đàn ông mặc áo giáp, đàn bà phải chuyên chở, khổ không sống nổi. Người ta phải thắt cổ trên cây dọc đường. Người chết trông nhau.” Quân Tần bị tổn thất nặng nề, sách cổ Hoài Nam Tử của Lưu An mô tả: “Thây phơi máu chảy hàng chục vạn người”. Tại Trung Nguyên, Tần Thủy Hoàng qua đời, Tần Nhị Thế kế vị và ra lệnh bãi binh vào năm 208 TCN.
Vó ngựa Mông Cổ lướt tới đâu, cỏ ở đó không mọc nổi
Vó ngựa Mông Cổ lướt tới đâu, cỏ ở đó không mọc nổi
Thành Cát Tư Hãn từng gọi đội binh mã thiện chiến của mình là: “Vó ngựa Mông Cổ lướt tới đâu, cỏ ở đó không mọc nổi.” Đây là đội quân xâm lược bành trướng thế giới tàn bạo nhất trong thế kỷ 13. Quân đội này đã diệt các nước lớn như Hạ, Kim, Tống, thôn tính Trung Hoa, khuất phục Triều Tiên. Kéo quân gieo rắc ác mộng khắp thế giới, kể cả Trung Đông, châu Âu và Nga, khiến cho những nước phương Tây phải kinh hoàng. Đội quân kỵ xạ và kỹ thuật cưỡi ngựa bắn tên của kỵ binh Mông Cổ là vô địch và hầu như bất khả chiến bại. Tuy nhiên, khi hơn 70 vạn quân Mông Cổ (Lần thứ nhất: 3 vạn quân. Lần thứ hai: 20 vạn quân. Lần thứ ba: 50 vạn quân) kéo vào Đại Việt dưới sự chỉ huy của thái tử Thoát Hoan (Toghan) và các danh tướng từng gieo rắc sợ hãi cho 1/3 thế giới như Ô Mã Nhi (Omar) và Toa Đô (Suodu)…. thì họ đã bị thua to dưới tay thiên tài quân sự Trần Hưng Đạo và quân dân Đại Việt.
Chiến thắng Điện Biên Phủ
Chiến thắng Điện Biên Phủ
Năm 1858, liên quân Pháp – Tây Ban Nha chính thức xâm lược Đại Nam. Với khoảng cách quá xa về trình độ dân trí, phương thức sản xuất và tiềm lực kinh tế quân sự, quân Pháp hầu như dễ dàng đánh đâu thắng đó. Năm 1886, sau khi hoàn toàn đánh bại quân chủ chiến triều Nguyễn, quân nhà Thanh và quân Cờ Đen, Pháp chính thức thiết lập ách thống trị thực dân kiểu cổ điển trên toàn cõi Việt Nam. Bắc Kỳ và Trung Kỳ được xem là xứ “bảo hộ” với triều đình Huế bù nhìn. Nam Kỳ bị xem là xứ thuộc địa chính thức thuộc chủ quyền của Pháp. Năm 1945, quân đội Nhật đảo chính Pháp. Năm 1946, Pháp quay lại tái chiếm Đông Dương. Cuộc kháng chiến chống Pháp nổ ra và kết thúc sau chiến dịch Điện Biên Phủ và sự ký kết của Hiệp định Genève 1954, gần 20 vạn quân Pháp và gần 30 vạn quân ngụy đã bị thất bại trước chủ tịch Hồ Chí Minh, đại tướng Võ Nguyên Giáp, và quân dân Việt Nam, Pháp chính thức công nhận sự độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của 3 nước Đông Dương. Chiến dịch Điện Biên Phủ là chiến thắng quân sự lớn nhất trong cuộc trường kỳ kháng chiến chống thực dân suốt 96 năm của Việt Nam. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử thế giới, một thuộc địa phương Đông thắng cuộc trước một đế quốc phương Tây. Sau sự kiện này, các thuộc địa khác trên thế giới, nhất là ở Á – Phi cũng noi gương đồng loạt nổi dậy.
oOo
Thế kỷ 20 nổi lên một thế lực hùng mạnh bậc nhất: Hoa Kỳ, với một thế lực chính trị, quân sự, kinh tế và văn hóa có ảnh hưởng lớn nhất thế giới. Theo tư tưởng Vận mệnh hiển nhiên, Hoa Kỳ đã bắt đầu cuộc bành trướng lãnh thổ mạnh mẽ trên khắp Bắc Mỹ trong thế kỷ 19, bao gồm các hành động xâm lược, diệt chủng, thiết lập chế độ thuộc địa trên các đất đai mới, đến khi thuộc địa đó hội đủ điều kiện thì nhập vào liên bang Hoa Kỳ (như Hawaii, Alaska).
Đến cuối thế kỷ 19, biên giới Hoa Kỳ đã kéo dài đến Thái Bình Dương, và trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới. Chiến tranh Tây Ban Nha-Hoa Kỳ và Thế chiến I đã xác định vị thế cường quốc quân sự toàn cầu của Mỹ. Thế chiến II đã xác định vị thế siêu cường toàn cầu của Hoa Kỳ, là quốc gia đầu tiên phát triển vũ khí hạt nhân, và là thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc.
Từ thời lập quốc đến năm 1924, quân đội Mỹ đã trải qua hơn 100 cuộc chiến tranh xâm lược, bình định, và hàng vạn trận chiến lớn nhỏ trong quá trình chinh phục, xâm chiếm, diệt tộc, cướp đất đai của các lực lượng bản địa. Các chủng tộc, dân tộc bản xứ trước đó có hàng chục triệu người, sau hơn 100 cuộc chiến chỉ còn lại chừng mấy trăm ngàn người.
Từ năm 1776 đến năm 1973, quân đội Mỹ đã bình định và dẹp tan khoảng 30 cuộc khởi nghĩa chống chế độ nô lệ, sưu cao thuế nặng và bất công giai cấp.
Từ năm 1835 đến năm 1932, quân đội Mỹ đã tham chiến trong gần 10 cuộc chiến tranh xâm lấn, cướp đất, xung đột quân sự biên giới.
Từ năm 1798 đến 1953, quân đội Mỹ đã chiến đấu trong hơn 10 cuộc chiến tranh ở hải ngoại, đánh đến châu Âu, châu Mỹ Latinh, châu Phi, châu Á và các quần đảo ngoài biển. Bao gồm hai cuộc Chiến tranh Thế giới.
Trong số khoảng 150 cuộc chiến lớn nhỏ đó, quân đội Hoa Kỳ chưa 1 lần thua cuộc.
Cuộc đọ sức lịch sử giữa một trong những dân tộc đánh bại nhiều kẻ thù xâm lược nhất với một quân đội đánh bại nhiều đối thủ nhất, bắt đầu.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong bài tham luận “Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, thắng lợi vĩ đại, bài học lịch sử” trong hội thảo khoa học “Đại thắng mùa Xuân 1975 – Bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam” do Bộ Quốc phòng, Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh và Ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương tổ chức trong hai ngày 14 và 15 tháng 4 năm 2005 đã gợi nhớ và nhấn mạnh lại thời khắc dầu sôi lửa bỏng này: “Dân tộc Việt Nam đứng trước một khó khăn, thử thách chưa từng thấy trong lịch sử”…. và…. “Cuộc kháng chiến chống Mỹ là thử thách lớn nhất, ác liệt nhất đối với dân tộc ta. Chúng ta đã phải đương đầu với đế quốc hùng mạnh nhất, giàu có nhất, tàn bạo, nham hiểm và hiếu chiến nhất. Cuộc chiến tranh kéo dài qua năm đời tổng thống Mỹ với một tương quan lực lượng chênh lệch nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân ta về phương thức sản xuất và tiềm lực kinh tế quân sự.

Tóm lược quan hệ Việt – Mỹ trước khi cuộc chiến giữa hai nước xảy ra

Năm 1787, hoàng tử Nguyễn Phúc Cảnh, sau này là thái tử của vua Gia Long, theo Giám mục Bá Đa Lộc (Pigneau de Béhaine) sang Pháp và đã gặp tổng thống thứ ba của Hoa Kỳ là Thomas Jefferson, khi ông đang là Công sứ Toàn quyền Hoa Kỳ tại nước Pháp. Cuộc gặp gỡ này được một số nhà nghiên cứu sử học xem là cuộc tiếp xúc “chính thức” giữa triều Nguyễn và liên bang Hoa Kỳ.
Công sứ Jefferson là một người đa tài, đam mê nghiên cứu về nông nghiệp đã chủ động đến gặp hoàng tử Cảnh với mong muốn tìm được giống lúa thích hợp cho vùng Carolina trên đất Mỹ. Tuy nhiên, mong muốn của Jefferson đã không thành hiện thực khi vị hoàng tử nhỏ tuổi hồi hương.
Trong chuyến hành trình đến vùng biển châu Á năm 1845, chiến thuyền Constitution (thường gọi là Old Ironsides) của Hoa Kỳ đã cập bến Đà Nẵng. Thuyền trưởng là John Percival liên lạc với các quan địa phương xin được tiếp xúc với triều Nguyễn để đặt mối giao hảo. Được tin, vua Thiệu Trị tại Huế cử viên ngoại lang Nguyễn Long đi hỏa tốc vào Đà Nẵng hiệp cùng Kinh lịch thuộc viên ở tỉnh là Nguyễn Dụng Giai đến thăm hỏi, làm việc với Percival.
Nhưng thay vì gây thêm cảm tình, Percival khi nhận được thư cầu cứu của giám mục Dominique Lefebvre đang bị giam cầm, thì lập tức chiếm đoạt lấy 3 chiến thuyền và một số người làm con tin, đòi nhà chức trách phải thả Lefebvre. Sự việc không giải quyết được, Percival sai nổ súng bắn lên bờ rồi nhổ neo ra khơi ngày 16 tháng 5, khiến tình hình thêm rắc rối.
Năm 1873, Bùi Viện được vua Tự Đức cử sang Mỹ như một “đại sứ đặc mệnh toàn quyền” để cầu viện chống Pháp. Bùi Viện sau đó đã đi qua Yokohama (Nhật) để đáp tàu sang Mỹ. Tổng thống Ulysses Grant (nhiệm kỳ 1868-1876) lúc này chưa có nhu cầu chống Pháp, thấy không có lợi lộc gì và có lẽ sợ ảnh hưởng quan hệ với Pháp, nên không muốn tiếp kiến. Bùi Viện tiếc công đi xa nên lưu lại Mỹ 1 năm kiên nhẫn chờ gặp. Đến khi Pháp và Mỹ đụng độ trong trận chiến ở Mexico thì Grant mới hỏi đến Bùi Viện. Nhưng sau đó Mỹ – Pháp xuống thang xung đột ở Mexico, Grant viện lý do Bùi Viện không mang theo quốc thư rồi từ chối giúp đỡ. Vì vậy, ông lại quay về Việt Nam trở lại kinh thành Huế.
Có được thư ủy nhiệm của vua Tự Đức, Bùi Viện lại xuất dương một lần nữa. Sau những chuyến hải hành khổ sở với các tàu thủy lạc hậu thời đó, năm 1875, Bùi Viện lại có mặt tại Hoa Kỳ. Có trong tay quốc thư nhưng lại gặp lúc Mỹ và Pháp đã giảng hòa nên Ulysses Grant lại “đuổi khéo” sứ giả.
Năm 1919, Nguyễn Ái Quốc đại diện hội Những người An Nam yêu nước gởi bản Yêu sách của nhân dân An Nam đến Hội nghị Hòa bình Versailles cho tổng thống Mỹ Woodrow Wilson nhưng không được trả lời.
Đầu những năm 1940, cơ quan OSS (tiền thân của CIA) của Mỹ đã giúp đỡ Việt Minh thuốc men và một số vũ khí để chống Nhật, đối tượng lúc ấy là kẻ địch của cả Mỹ và Việt Nam. Việt Minh giúp đỡ lực lượng Mỹ về tin tức tình báo và giúp cứu các lính Mỹ rồi chuyển giao cho người Mỹ.
Quân Pháp đi lại trên kinh rạch ở Cà Mau
Quân Pháp đi lại trên kinh rạch ở Cà Mau
Trong chiến tranh Pháp – Việt (1945-1954), Mỹ đã đứng sau ủng hộ Pháp chiếm lại thuộc địa. Năm 1950, Mỹ bắt đầu nhúng tay can thiệp sâu vào Việt Nam, họ viện trợ tiền bạc và vũ khí cho Pháp.
Cũng trong năm này, người dân Sài Gòn dưới sự lãnh đạo của Đảng và Mặt trận Việt Minh đã biểu tình chống hai tàu chiến Mỹ là Anderson và Stickon cập bến Sài Gòn để giúp chuyên chở lính Pháp. Một đơn vị Quân đội Nhân dân Việt Nam đã nã súng cối vào các tàu đang nêu đậu trên sông. Hai tàu chiến Mỹ rút neo rời khỏi Sài Gòn. Đây là cuộc biểu tình chống Mỹ đầu tiên của người dân Việt Nam.
Tàu chiến Mỹ cập cảng Sài Gòn
Tàu chiến Mỹ cập cảng Sài Gòn
Quần chúng Sài Gòn xuống đường biểu tình chống Pháp - Mỹ (1950)
Quần chúng Sài Gòn xuống đường biểu tình chống Pháp - Mỹ (1950)
Đến cuối chiến tranh, Mỹ đã cáng đáng 78% chi phí chiến tranh, lên đến trên 1,5 tỷ USD. Đa phần các vũ khí mà quân đội Việt Nam tịch thu được cho đến thời điểm này chính là vũ khí của Mỹ. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Mỹ đã trực tiếp chở khoảng 16 ngàn quân Pháp vào Điện Biên Phủ và hỗ trợ không quân cho Pháp.
Nhưng cuối cùng, công thức viện trợ Mỹ – viễn chinh Pháp – quân bản xứ đã phá sản trong cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương của thực dân Pháp. Pháp đành phải ngồi vào bàn đàm phán tại hội nghị Paris về Đông Dương, công nhận nền độc lập của 3 xứ Đông Dương, rút quân trong 2 năm, ấn định tổ chức tổng tuyển cử thống nhất Việt Nam vào năm 1956.
Tướng Pháp Charles Chanson mở tiệc "gắn lon" cho các sĩ quan ngụy ở một con tàu trên sông Hậu.
Tướng Pháp Charles Chanson mở tiệc "gắn lon" cho các sĩ quan ngụy ở một con tàu trên sông Hậu.

Một người Mỹ từng hướng dẫn Đại tướng Võ Nguyên Giáp dùng vũ khí



Cách đây 70 năm, một người Mỹ từng hướng dẫn Đại tướng Võ Nguyên Giáp cách ném lựu đạn để chống lại kẻ thù xâm lăng. Báo Telegram (Mỹ) đã có bài viết về nhân vật “đặc biệt” này.

Tháng 7.1945, ông Henry A.Prunier cùng 6 người Mỹ khác nhảy dù xuống một ngôi làng cách thủ đô Hà Nội khoảng 120km về phía tây bắc để thực hiện một nhiệm vụ bí mật là hướng dẫn cho 200 du kích Việt Minh cách sử dụng các vũ khí Mỹ tân tiến tại căn cứ của họ ở trong rừng. Những người lính Mỹ này là thành viên của Cơ quan các dịch vụ chiến lược (OSS) – một cơ quan tình báo của Mỹ vào thời Thế chiến II.
Ông Henry A.Prunier.
Ông Henry A.Prunier.
OSS muốn có được sự giúp đỡ của Việt Minh để chống lại quân đội Nhật Bản, khi đó đang chiếm đóng vùng Đông Dương, ngược lại Việt Minh lại muốn giành được độc lập cho Việt Nam. Nhóm của ông Henry A.Prunier được đặt tên là Deer Team (Đội Hươu) được chỉ định ở lại Việt Nam trong vòng 2 tháng.
Ông Prunier khi đó mới 23 tuổi, được tuyển dụng vào quân đội Mỹ với tư cách là thông dịch viên. Công việc đầu tiên của Prunier tại Việt Nam là giới thiệu cho một người Việt Nam bé nhỏ có tên gọi là Van cách sử dụng súng trường, súng máy, súng badôca và các loại vũ khí khác của Mỹ. Van – người thường mặc bộ trang phục vải linen trắng, đi giày đen và đội mũ phớt mềm màu đen – thực chất là Đại tướng Võ Nguyên Giáp – người 9 năm sau đã dẫn đầu lực lượng quân đội Bắc Việt Nam giành chiến thắng vang dội tại chiến trường Điện Biên Phủ, đuổi quân đội Pháp ra khỏi Việt Nam và sau đó còn dồn quân đội Mỹ vào thế bế tắc.
“Ông Giáp muốn biết tại sao chúng tôi lại tung bổng quả lựu đạn lên và cái gì đã kích hoạt súng cối” – ông Prunier trả lời phỏng vấn của báo Worcester Telegram & Gazette vào năm 2011. Ông Prunier còn kể lại rằng có lần, tướng Giáp còn cúi đầu xuống để nhìn hẳn vào thùng đạn súng cối. “Lúc đó, tôi bị sốc vì sự dũng cảm của ông ấy” – ông Prunier nói.
Khi nhảy dù xuống Việt Nam, ông Prunier đáp ngay phải một ruộng lúa trong khi những người khác mắc trên các cành cây. Họ được Việt Minh giải cứu và đưa tới một chiếc lều tre. Ở đó, họ đã gặp lãnh đạo Hồ Chí Minh. “Ông ấy tự giới thiệu là C.M.Hoo” – ông Prunier kể lại. Khi Chủ tịch Hồ Chí Minh biết ông Prunier đến từ Massachusetts, Chủ tịch đã kể cho ông Prunier rất nhiều câu chuyện thú vị về việc mình đã từng đặt chân đến Boston.
Trong thời gian Đội Hươu ở cùng Việt Minh, quân Nhật Bản đã đầu hàng và Việt Minh đưa ra Tuyên ngôn độc lập. Sau đó, Bác Hồ đưa cho những người lính Mỹ trên một bức thư để chuyển tới Tổng thống Mỹ thời đó là Harry S.Truman, để yêu cầu Mỹ hỗ trợ Việt Minh chống Pháp. Tuy nhiên, ông Truman không bao giờ phản hồi bức thư đó, vì Mỹ đã hậu thuẫn Pháp. Nhiều chuyên gia nghiên cứu lịch sử cho rằng, bằng việc từ chối yêu cầu này của Bác Hồ, nước Mỹ đã bỏ qua cơ hội xây dựng quan hệ tốt đẹp với miền Bắc Việt Nam và từ đó có thể tránh khỏi cuộc chiến tranh 2 thập kỷ sau đó.
Ông Prunier cho biết trong thời gian đó, đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng cho một chiếc thảm thêu làm kỷ niệm và kỷ vật này sau đó được ông Prunier bày tại nhà riêng ở Mỹ.
Năm 1995, ông Prunier trở lại Việt Nam và gặp lại những người lính Việt Minh năm xưa còn sống. Khi nhìn thấy ông Prunier, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã nhận ngay ra. Ông cầm một quả cam theo cách cầm lựu đạn mà ông Prunier từng chỉ cho ông và kêu lên phấn khích “Như thế, như thế, như thế”.
Sau khi hoàn thành nhiệm vụ tại Việt N

Thứ Bảy, 27 tháng 4, 2013

Sự thật về người lính “Đặc nhiệm Mỹ sống 45 năm ở Việt Nam”



Trưa 27/4, sau khi đăng bài xung quanh câu chuyện khó tin ‘đặc nhiệm Mỹ sống 45 năm ở VN’, PV Tiền Phong tiếp tục xác minh các nguồn tin chính thức từ các cơ quan, tổ chức của Mỹ.


Sau khi được trực tiếp tiếp cận nhiều đoạn trong bộ phim tài liệu Unclaimed (Không đòi hỏi) của nhà làm phim Michael Jorgensen bắt đầu khởi chiếu chính thức từ ngày 30/4 ở Mỹ và Canada như báo chí hai nước này đã đưa tin, PV Tiền Phong nhận thấy nhiều chi tiết chưa có bằng chứng xác thực, mặc dù đạo diễn đã cố tình chứng tỏ điều đó.
Người đàn ông Pháp (trái) tự nhận mình là cựu binh Robertson?.
Hình ảnh về cựu binh Robertson trong phim không rõ ràng và báo chí Mỹ, Canada cũng chưa được cung cấp hình ảnh chính thức nào về Robertson và cuộc sống của ông hiện nay ở Việt Nam nếu nhân vật này có thật.
Mặc dù đang trong kỳ nghỉ cuối tuần, nhưng thông tin ban đầu cho biết nhiều khả năng chính nhà làm phim Michael Jorgensen cũng bị lừa hoặc “cố tình” (?) và các đầu mối thông tin từ Việt Nam đều cho thấy việc một cựu binh Mỹ trong chiến tranh Việt Nam tưởng đã chết, nhưng đang sống ở vùng núi miền Bắc Việt Nam mà không ai biết trong chừng ấy năm là không tưởng.
Cựu binh Robertson năm 1966 được xác nhận là đã chết năm 1968 sau khi máy bay bị bắn rơi.
Hoạt động tìm kiếm hài cốt người Mỹ mất tích trong chiến tranh ở Việt Nam là hoạt động nhân đạo giữa hai Chính phủ Việt Nam và Hoa Kỳ. Đại diện Chính phủ Hoa Kỳ nhiều lần cảm ơn và đánh giá cao chính sách nhân đạo, thiện chí và sự hợp tác tích cực, sự giúp đỡ ngày càng hiệu quả của Chính phủ và nhân dân Việt Nam trong hoạt động tìm kiếm người Mỹ mất tích trong chiến tranh ở Việt Nam. Quan chức cấp cao Việt Nam cũng luôn khẳng định chính sách nhất quán của Chính phủ Việt Nam trong vấn đề tìm kiếm người Mỹ mất tích trong chiến tranh và Việt Nam tiếp tục hợp tác với phía Hoa Kỳ trong nỗ lực tìm kiếm.
Một số cựu binh Mỹ đang làm việc ở Việt Nam cũng cho rằng việc tìm kiếm người Mỹ mất tích trong chiến tranh Việt Nam luôn là ưu tiên hàng đầu giữa hai nhà nước Việt Nam và Hoa Kỳ nên việc một cựu binh Mỹ sống suốt 45 ở vùng núi Việt Nam mà không ai biết là không có cơ sở.
Đại diện Đại sứ quán Mỹ tại Việt Nam cho biết, đây là chuyện không đáng tin và sau kỳ nghỉ sẽ có Thông cáo báo chí chính thức về sự việc này.
Trên các diễn đàn mạng của cựu binh Mỹ trong chiến tranh Việt Nam, câu chuyện về cựu binh Robertson từng được bàn tán khá nhiều. Trên trang http://www.macvsog.cc, một số cựu binh khẳng định thông tin về cựu binh Robertson, tử nạn do máy bay bị bắn rơi ở biên giới Lào năm 1968, hiện còn sống là không đúng sự thật.
Người được cho là cựu binh Robertson vẫn còn sống thực ra là một người Pháp lấy vợ Việt Nam tại Cămpuchia (bìa trái).
Bức ảnh chụp cựu binh Robertson thực ra là một người Pháp sống nhiều năm ở Cămpuchia, lấy vợ Việt Nam và có vài người con. Cũng theo thông tin trên trang http://www.macvsog.cc, chính người đàn ông Pháp này đã cố tình lừa cựu binh Tom Faunce, và ông này đã đến kể câu chuyện (bị lừa) với nhà làm phim Jorgensen.
Trên diễn đàn của trang military.com, các cựu binh Mỹ cũng đưa ra nhiều dẫn chứng cho biết đây là câu chuyện không có thật và người tự nhận mình là cựu binh Robertson thực ra là một người Pháp có vợ Việt Nam.
Đây là những thông tin ban đầu mà PV Tiền Phong xác minh được, thông tin chính thức sẽ được Đại sứ quán Mỹ, một số tổ chức cựu binh Mỹ tại Việt Nam… cung cấp trong thời gian tới.
Các tài liệu cho biết cựu binh Robertson cùng phi công Việt Nam và một vài người khác có mặt trên chiếc trực thăng King Bee CH34 cất cánh từ sân bay Phú Bài đã bị trúng đạn và lao thẳng xuống rừng cây ở thung lũng A Shau (Lào) ngày 20/5/1968 và được xác nhận đã chết.
(BTP)