CHI HỘI THƯƠNG BINH TINH NGHĨA 282 lê lợi Liên hệ: 0313840668-0934563996           CHI HỘI THƯƠNG BINH TINH NGHĨA 282 lê lợi Liên hệ: 0313840668-0934563996                   CHI HỘI THƯƠNG BINH TINH NGHĨA 282 lê lợi Liên hệ: 0313840668-0934563996                   TIN TỔNGHỢP                     GIÃ SỬ                         QUÂNSỰ             HOANG SA                                        Biển Đông       Thế Giới     Tin trong nước      Sử Việt       UFO      Chuyện Lạ      Gia Đình;

Chủ Nhật, 19 tháng 5, 2013

Ông Chen Baihe chết vì bị đầu độc trong nhà tù Jidong?

Ông Chen Baihe, 59 tuổi, đã bị bỏ tù 4 năm vì theo tập và giải thích sự thật về Pháp Luân Công, mặc dù Hiến pháp Trung Quốc tuyên bố rằng các công dân có quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo và ngôn luận.
Khi ông được trả tự do vào tháng 5 năm 2010, gia đình ông phát hiện nhiều dấu hiệu đáng lo ngại về sức khỏe của ông, bao gồm mắt lờ đờ, ít nói, thường xuyên mệt mỏi và buồn ngủ, phản ứng chậm, mất trí nhớ, lơ đãng, chân yếu, và các nốt đỏ trên ngực còn lưng thì đen.  Ông Chen gần như bị mất hoàn toàn trí nhớ 2 tháng trước khi chết.  Ông nói lắp bắp và mắt phải hầu như không còn nhìn thấy gì.
Ông Chen ngã gục xuống vào khoảng 6 giờ sáng, ngày 17 tháng 9 năm 2012.  Ông bị bất tỉnh trong 22 tiếng đồng hồ và bị sốt cao trước khi tắt thở.  Hai tiếng sau khi chết, mặt, hai tai và các móng tay của ông chuyển sang màu tím xanh.  Máu đỏ thẫm chảy ra khỏi miệng.  Khi thi thể ông được hỏa thiêu, nhân viên lò hỏa táng đã sốc khi thấy rằng tro của ông đen như than củi.  Họ nói rằng “Trời ơi, xương ông ấy đen quá.  Hẳn là ông đã bị đầu độc!”
陈百合去世时脸部都变成了青紫色
Mặt ông Chen chuyển sang màu tím xanh sau khi chết
陈百合的骨灰成黑炭色
Tro ông Chen đen như than củi
Ông Chen rất khỏe mạnh trước khi bị bỏ tù.  Ông bị bắt hôm 13 tháng 5 năm 2006, trong khi đi phát các tư liệu sự thật về Pháp Luân Công.  Ông bị kết án 4 năm tù mặc dù Điều 35 của Hiến pháp Trung Quốc cho công dân quyền tự do ngôn luận.  Ông Chen bị đưa đến nhà tù Jidong hôm 16 tháng 4 năm 2007.  Huyết áp của ông tăng lên đến 180-200.  Bệnh viện nhà tù đã kê đơn thuốc hạ huyết áp, nhưng thuốc đã không cải thiện được tình trạng của ông.  Thực tế, ông Chen bị phát ngứa rất kỳ lạ khắp thân thể.  Ông bắt đầu mất thị lực, đặc biệt là ở mắt phải.  Ông đã mất hoàn toàn thị lực vào mùa Hè năm 2009.
陈百合生前照片
Ông Chen Baihe
Ông Chen bắt đầu tập Pháp Luân Công năm 2005, sau khi vợ ông theo tập. Vợ ông, bà Zhang Guilan, trước kia từng bị rất nhiều bệnh khác nhau.  Các vấn đề sức khỏe mãn tính đã đem lại cho bà tính cáu giận.  Bà thường xuyên gây sự với chồng con.  Bà bắt đầu tập Pháp Luân Công năm 1998, và trở nên khỏi tất cả bệnh tật trong chưa đầy 6 tháng.  Bà cũng trở nên hòa đồng và rộng lượng hơn.  Ông Chen rất vui về những biến đổi của vợ, nên đã rất ủng hộ Pháp Luân Công.  Bà Zhang đã bị bắt và bỏ tù nhiều lần vì tập Pháp Luân Công sau năm 1999, khi Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) bắt đầu đàn áp Pháp Luân Công.  Chính quyền địa phương cũng nhiều lần sách nhiễu và lục soát nhà họ.  Vào tháng 4 năm 2002, trong khi ông Chen đến thăm vợ ở trại giam huyện Qianxi, ông bị bắt gặp đang đưa các tư liệu Pháp Luân Công cho bà nên ông bị bắt giam 15 ngày và phạt 4000 nhân dân tệ.
Khi ông Chen đang đi phát tư liệu sự thật về Pháp Luân Công ở xã Yuhuzhai, huyện Qianxi hôm 13 tháng 5 năm 2006 thì cảnh sát địa phương và công an huyện Qianxi bắt giữ ông.  Tòa án huyện Qianxi đã kết án ông 4 năm tù vào tháng 1 năm 2007.  Gia đình ông kháng án tại Tòa trung thẩm thành phố Đường Sơn, nhưng tòa vẫn giữ nguyên bản án.  Sau đó ông Chen bị đưa đến nhà tù Jidong.
Bà Zhang và con gái đến thăm ông ở trong tù vào giữa tháng 7 năm 2009.  Họ thấy mắt ông rất lạ và được biết rằng ông đã mất thị lực ở mắt trái.  Mắt phải cũng đã bắt đầu mờ.  Ông cũng bị huyết áp cao những nhà tù chưa bao giờ thông báo cho gia đình ông về những vấn đề sức khỏe này.
Bà Zhang đã gọi điênh cho ban giám đốc nhà tù bao gồm He Lizhi và Xu Ziqiu để yêu cầu thả ông ra vì lý do y tế.  Họ nói họ phải khám sức khỏe ông để xem ông có được thả không.  Khi bà Zhang gọi lại 2 ngày sau đó, họ chỉ nói rằng ông Chen không đạt tiêu chuẩn để thả và gác máy.
Gia đình ông Chen đến cơ quan quản lý nhà tù ở xã Jiantuozi, huyện Fengnan, để yêu cầu thả ông vì lý do y tế.  Họ gặp giám đốc Zhao và ông này hứa sẽ yêu cầu nhà tù kiểm tra sức khỏe một lần nữa.  Bà Zhang liên hệ lại với giám đốc Zhao một tuần sau đó nhưng bà được thông báo là nếu như ông Chen bị mù cả hai mắt thì mới được thả.  Khi được hỏi điều gì sẽ xảy ra nếu thị lực của ông Chen bị giảm thêm nữa, ông Zhao nói rằng nó sẽ không giảm nhanh như vậy và rằng bệnh viện của nhà tù sẽ có thể phẫu thuật cho ông Chen nếu cần.
Khi bà Zhang đến thăm chồng ở nhà tù lần tiếp theo hôm 4 tháng 12 năm 2009, bà lại yêu cầu thả ông.  Tuy nhiên, nhà tù từ chối không cho bà gặp ông và nói rằng việc thăm nuôi sẽ bị hoãn cho đến khi mùa cúm qua đi.  Một nữ gác ngục bảo bà Zhang nói chuyện với người giám sát ông Chen – đội trưởng đội 5 có tên Li.  Li bảo bà Zhang là bác sĩ xác nhận rằng ông Chen cần được phẫu thuật mắt, nhưng ông Chen không muốn phẫu thuật ở trong tù.
Bà Zhang yêu cầu thả ông ra.  Li nói rằng họ đang đối xử với ông như thể ông đã được thả.  Li bảo bà Zhang rằng ông Chen không bị bắt làm việc nặng nào và ông chỉ phải quét phòng.  Li nói thêm rằng họ đã làm một bản báo cáo về tình trạng của ông Chen nhưng thủ tục thả rất phức tạp, đặc biệt là đối với những người tập Pháp Luân Công.  Li nói ông Chen có thể sẽ mãn hạn tù vào lúc ông được thả ra.
Bà Zhang nói, “Anh không cho tôi gặp ông ấy và cũng không thả ông ấy ra.  Ai sẽ chịu trách nhiệm nếu tính mạng của ông ấy gặp nguy hiểm?”  Bà đến gặp giám đốc Zhao một lần nữa, nhưng ông này nói rằng ông Chen không đủ điều kiện để được thả.  Đội 5 phải có yêu cầu thì ông ấy mới duyệt được.
Ông Chen chỉ được thả sau khi mãn hạn tù.
Có nhiều báo cáo rằng các nhà tù và trung tâm cưỡng bức tẩy não đã tiêm các loại thuốc hủy diệt hệ thần kinh trung ương vào những người theo tập Pháp Luân Công.  Có các cáo buộc rằng thuốc độc được bỏ vào đồ ăn thức uống của các học viên Pháp Luân Công nhưng không làm họ chết ngay mà chỉ chết sau đó nhiều tháng hoặc hàng năm sau đó.
(Theo Minghui.org)

Chủ Nhật, 28 tháng 4, 2013

Toàn cảnh cuộc đối đầu lịch sử Việt – Mỹ 1954-1975 (Kỳ 2)


Kỳ 2: Con đường gian nan đến ngày toàn thắng

Trong lịch sử hàng ngàn năm chống ngoại xâm, trước khi có cuộc đụng độ lịch sử với Hoa Kỳ, dân tộc Việt Nam đã từng đứng trước 3 kẻ khổng lồ có sức mạnh vô địch, áp đảo và vô cùng tàn bạo, tưởng chừng không thể chống đỡ nổi: 10 năm chống quân đội Tần Thủy Hoàng (218 TCN-208 TCN), ba lần chống quân Mông Cổ (1257-1258, 1284-1285, 1287-1288), 96 năm chống thực dân Pháp (1858-1954).


Quân Tần cực kỳ tinh nhuệ, được xem là đội quân vô địch trong thời điểm đó. Họ gồm thâu 6 nước, thống nhất Trung Hoa, sau đó đem quân Nam tiến, lần lượt chinh phạt thành công các tộc Bách Việt, sau đó tiến đến lãnh thổ Âu Việt. Người Âu Việt dưới sự lãnh đạo của Thục Phán và Dịch Hu Tống, lui vào rừng núi tiến hành chiến tranh du kích và chống trả kiên cường. Sau 10 năm chinh chiến, tình trạng quân Tần lúc này theo sách cổ Sử Ký của Tư Mã Thiên mô tả là: “Đóng binh ở đất vô dụng. Tiến không được, thoái không xong. Đàn ông mặc áo giáp, đàn bà phải chuyên chở, khổ không sống nổi. Người ta phải thắt cổ trên cây dọc đường. Người chết trông nhau.” Quân Tần bị tổn thất nặng nề, sách cổ Hoài Nam Tử của Lưu An mô tả: “Thây phơi máu chảy hàng chục vạn người”. Tại Trung Nguyên, Tần Thủy Hoàng qua đời, Tần Nhị Thế kế vị và ra lệnh bãi binh vào năm 208 TCN.
Vó ngựa Mông Cổ lướt tới đâu, cỏ ở đó không mọc nổi
Vó ngựa Mông Cổ lướt tới đâu, cỏ ở đó không mọc nổi
Thành Cát Tư Hãn từng gọi đội binh mã thiện chiến của mình là: “Vó ngựa Mông Cổ lướt tới đâu, cỏ ở đó không mọc nổi.” Đây là đội quân xâm lược bành trướng thế giới tàn bạo nhất trong thế kỷ 13. Quân đội này đã diệt các nước lớn như Hạ, Kim, Tống, thôn tính Trung Hoa, khuất phục Triều Tiên. Kéo quân gieo rắc ác mộng khắp thế giới, kể cả Trung Đông, châu Âu và Nga, khiến cho những nước phương Tây phải kinh hoàng. Đội quân kỵ xạ và kỹ thuật cưỡi ngựa bắn tên của kỵ binh Mông Cổ là vô địch và hầu như bất khả chiến bại. Tuy nhiên, khi hơn 70 vạn quân Mông Cổ (Lần thứ nhất: 3 vạn quân. Lần thứ hai: 20 vạn quân. Lần thứ ba: 50 vạn quân) kéo vào Đại Việt dưới sự chỉ huy của thái tử Thoát Hoan (Toghan) và các danh tướng từng gieo rắc sợ hãi cho 1/3 thế giới như Ô Mã Nhi (Omar) và Toa Đô (Suodu)…. thì họ đã bị thua to dưới tay thiên tài quân sự Trần Hưng Đạo và quân dân Đại Việt.
Chiến thắng Điện Biên Phủ
Chiến thắng Điện Biên Phủ
Năm 1858, liên quân Pháp – Tây Ban Nha chính thức xâm lược Đại Nam. Với khoảng cách quá xa về trình độ dân trí, phương thức sản xuất và tiềm lực kinh tế quân sự, quân Pháp hầu như dễ dàng đánh đâu thắng đó. Năm 1886, sau khi hoàn toàn đánh bại quân chủ chiến triều Nguyễn, quân nhà Thanh và quân Cờ Đen, Pháp chính thức thiết lập ách thống trị thực dân kiểu cổ điển trên toàn cõi Việt Nam. Bắc Kỳ và Trung Kỳ được xem là xứ “bảo hộ” với triều đình Huế bù nhìn. Nam Kỳ bị xem là xứ thuộc địa chính thức thuộc chủ quyền của Pháp. Năm 1945, quân đội Nhật đảo chính Pháp. Năm 1946, Pháp quay lại tái chiếm Đông Dương. Cuộc kháng chiến chống Pháp nổ ra và kết thúc sau chiến dịch Điện Biên Phủ và sự ký kết của Hiệp định Genève 1954, gần 20 vạn quân Pháp và gần 30 vạn quân ngụy đã bị thất bại trước chủ tịch Hồ Chí Minh, đại tướng Võ Nguyên Giáp, và quân dân Việt Nam, Pháp chính thức công nhận sự độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của 3 nước Đông Dương. Chiến dịch Điện Biên Phủ là chiến thắng quân sự lớn nhất trong cuộc trường kỳ kháng chiến chống thực dân suốt 96 năm của Việt Nam. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử thế giới, một thuộc địa phương Đông thắng cuộc trước một đế quốc phương Tây. Sau sự kiện này, các thuộc địa khác trên thế giới, nhất là ở Á – Phi cũng noi gương đồng loạt nổi dậy.
oOo
Thế kỷ 20 nổi lên một thế lực hùng mạnh bậc nhất: Hoa Kỳ, với một thế lực chính trị, quân sự, kinh tế và văn hóa có ảnh hưởng lớn nhất thế giới. Theo tư tưởng Vận mệnh hiển nhiên, Hoa Kỳ đã bắt đầu cuộc bành trướng lãnh thổ mạnh mẽ trên khắp Bắc Mỹ trong thế kỷ 19, bao gồm các hành động xâm lược, diệt chủng, thiết lập chế độ thuộc địa trên các đất đai mới, đến khi thuộc địa đó hội đủ điều kiện thì nhập vào liên bang Hoa Kỳ (như Hawaii, Alaska).
Đến cuối thế kỷ 19, biên giới Hoa Kỳ đã kéo dài đến Thái Bình Dương, và trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới. Chiến tranh Tây Ban Nha-Hoa Kỳ và Thế chiến I đã xác định vị thế cường quốc quân sự toàn cầu của Mỹ. Thế chiến II đã xác định vị thế siêu cường toàn cầu của Hoa Kỳ, là quốc gia đầu tiên phát triển vũ khí hạt nhân, và là thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc.
Từ thời lập quốc đến năm 1924, quân đội Mỹ đã trải qua hơn 100 cuộc chiến tranh xâm lược, bình định, và hàng vạn trận chiến lớn nhỏ trong quá trình chinh phục, xâm chiếm, diệt tộc, cướp đất đai của các lực lượng bản địa. Các chủng tộc, dân tộc bản xứ trước đó có hàng chục triệu người, sau hơn 100 cuộc chiến chỉ còn lại chừng mấy trăm ngàn người.
Từ năm 1776 đến năm 1973, quân đội Mỹ đã bình định và dẹp tan khoảng 30 cuộc khởi nghĩa chống chế độ nô lệ, sưu cao thuế nặng và bất công giai cấp.
Từ năm 1835 đến năm 1932, quân đội Mỹ đã tham chiến trong gần 10 cuộc chiến tranh xâm lấn, cướp đất, xung đột quân sự biên giới.
Từ năm 1798 đến 1953, quân đội Mỹ đã chiến đấu trong hơn 10 cuộc chiến tranh ở hải ngoại, đánh đến châu Âu, châu Mỹ Latinh, châu Phi, châu Á và các quần đảo ngoài biển. Bao gồm hai cuộc Chiến tranh Thế giới.
Trong số khoảng 150 cuộc chiến lớn nhỏ đó, quân đội Hoa Kỳ chưa 1 lần thua cuộc.
Cuộc đọ sức lịch sử giữa một trong những dân tộc đánh bại nhiều kẻ thù xâm lược nhất với một quân đội đánh bại nhiều đối thủ nhất, bắt đầu.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong bài tham luận “Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, thắng lợi vĩ đại, bài học lịch sử” trong hội thảo khoa học “Đại thắng mùa Xuân 1975 – Bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam” do Bộ Quốc phòng, Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh và Ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương tổ chức trong hai ngày 14 và 15 tháng 4 năm 2005 đã gợi nhớ và nhấn mạnh lại thời khắc dầu sôi lửa bỏng này: “Dân tộc Việt Nam đứng trước một khó khăn, thử thách chưa từng thấy trong lịch sử”…. và…. “Cuộc kháng chiến chống Mỹ là thử thách lớn nhất, ác liệt nhất đối với dân tộc ta. Chúng ta đã phải đương đầu với đế quốc hùng mạnh nhất, giàu có nhất, tàn bạo, nham hiểm và hiếu chiến nhất. Cuộc chiến tranh kéo dài qua năm đời tổng thống Mỹ với một tương quan lực lượng chênh lệch nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân ta về phương thức sản xuất và tiềm lực kinh tế quân sự.

Tóm lược quan hệ Việt – Mỹ trước khi cuộc chiến giữa hai nước xảy ra

Năm 1787, hoàng tử Nguyễn Phúc Cảnh, sau này là thái tử của vua Gia Long, theo Giám mục Bá Đa Lộc (Pigneau de Béhaine) sang Pháp và đã gặp tổng thống thứ ba của Hoa Kỳ là Thomas Jefferson, khi ông đang là Công sứ Toàn quyền Hoa Kỳ tại nước Pháp. Cuộc gặp gỡ này được một số nhà nghiên cứu sử học xem là cuộc tiếp xúc “chính thức” giữa triều Nguyễn và liên bang Hoa Kỳ.
Công sứ Jefferson là một người đa tài, đam mê nghiên cứu về nông nghiệp đã chủ động đến gặp hoàng tử Cảnh với mong muốn tìm được giống lúa thích hợp cho vùng Carolina trên đất Mỹ. Tuy nhiên, mong muốn của Jefferson đã không thành hiện thực khi vị hoàng tử nhỏ tuổi hồi hương.
Trong chuyến hành trình đến vùng biển châu Á năm 1845, chiến thuyền Constitution (thường gọi là Old Ironsides) của Hoa Kỳ đã cập bến Đà Nẵng. Thuyền trưởng là John Percival liên lạc với các quan địa phương xin được tiếp xúc với triều Nguyễn để đặt mối giao hảo. Được tin, vua Thiệu Trị tại Huế cử viên ngoại lang Nguyễn Long đi hỏa tốc vào Đà Nẵng hiệp cùng Kinh lịch thuộc viên ở tỉnh là Nguyễn Dụng Giai đến thăm hỏi, làm việc với Percival.
Nhưng thay vì gây thêm cảm tình, Percival khi nhận được thư cầu cứu của giám mục Dominique Lefebvre đang bị giam cầm, thì lập tức chiếm đoạt lấy 3 chiến thuyền và một số người làm con tin, đòi nhà chức trách phải thả Lefebvre. Sự việc không giải quyết được, Percival sai nổ súng bắn lên bờ rồi nhổ neo ra khơi ngày 16 tháng 5, khiến tình hình thêm rắc rối.
Năm 1873, Bùi Viện được vua Tự Đức cử sang Mỹ như một “đại sứ đặc mệnh toàn quyền” để cầu viện chống Pháp. Bùi Viện sau đó đã đi qua Yokohama (Nhật) để đáp tàu sang Mỹ. Tổng thống Ulysses Grant (nhiệm kỳ 1868-1876) lúc này chưa có nhu cầu chống Pháp, thấy không có lợi lộc gì và có lẽ sợ ảnh hưởng quan hệ với Pháp, nên không muốn tiếp kiến. Bùi Viện tiếc công đi xa nên lưu lại Mỹ 1 năm kiên nhẫn chờ gặp. Đến khi Pháp và Mỹ đụng độ trong trận chiến ở Mexico thì Grant mới hỏi đến Bùi Viện. Nhưng sau đó Mỹ – Pháp xuống thang xung đột ở Mexico, Grant viện lý do Bùi Viện không mang theo quốc thư rồi từ chối giúp đỡ. Vì vậy, ông lại quay về Việt Nam trở lại kinh thành Huế.
Có được thư ủy nhiệm của vua Tự Đức, Bùi Viện lại xuất dương một lần nữa. Sau những chuyến hải hành khổ sở với các tàu thủy lạc hậu thời đó, năm 1875, Bùi Viện lại có mặt tại Hoa Kỳ. Có trong tay quốc thư nhưng lại gặp lúc Mỹ và Pháp đã giảng hòa nên Ulysses Grant lại “đuổi khéo” sứ giả.
Năm 1919, Nguyễn Ái Quốc đại diện hội Những người An Nam yêu nước gởi bản Yêu sách của nhân dân An Nam đến Hội nghị Hòa bình Versailles cho tổng thống Mỹ Woodrow Wilson nhưng không được trả lời.
Đầu những năm 1940, cơ quan OSS (tiền thân của CIA) của Mỹ đã giúp đỡ Việt Minh thuốc men và một số vũ khí để chống Nhật, đối tượng lúc ấy là kẻ địch của cả Mỹ và Việt Nam. Việt Minh giúp đỡ lực lượng Mỹ về tin tức tình báo và giúp cứu các lính Mỹ rồi chuyển giao cho người Mỹ.
Quân Pháp đi lại trên kinh rạch ở Cà Mau
Quân Pháp đi lại trên kinh rạch ở Cà Mau
Trong chiến tranh Pháp – Việt (1945-1954), Mỹ đã đứng sau ủng hộ Pháp chiếm lại thuộc địa. Năm 1950, Mỹ bắt đầu nhúng tay can thiệp sâu vào Việt Nam, họ viện trợ tiền bạc và vũ khí cho Pháp.
Cũng trong năm này, người dân Sài Gòn dưới sự lãnh đạo của Đảng và Mặt trận Việt Minh đã biểu tình chống hai tàu chiến Mỹ là Anderson và Stickon cập bến Sài Gòn để giúp chuyên chở lính Pháp. Một đơn vị Quân đội Nhân dân Việt Nam đã nã súng cối vào các tàu đang nêu đậu trên sông. Hai tàu chiến Mỹ rút neo rời khỏi Sài Gòn. Đây là cuộc biểu tình chống Mỹ đầu tiên của người dân Việt Nam.
Tàu chiến Mỹ cập cảng Sài Gòn
Tàu chiến Mỹ cập cảng Sài Gòn
Quần chúng Sài Gòn xuống đường biểu tình chống Pháp - Mỹ (1950)
Quần chúng Sài Gòn xuống đường biểu tình chống Pháp - Mỹ (1950)
Đến cuối chiến tranh, Mỹ đã cáng đáng 78% chi phí chiến tranh, lên đến trên 1,5 tỷ USD. Đa phần các vũ khí mà quân đội Việt Nam tịch thu được cho đến thời điểm này chính là vũ khí của Mỹ. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Mỹ đã trực tiếp chở khoảng 16 ngàn quân Pháp vào Điện Biên Phủ và hỗ trợ không quân cho Pháp.
Nhưng cuối cùng, công thức viện trợ Mỹ – viễn chinh Pháp – quân bản xứ đã phá sản trong cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương của thực dân Pháp. Pháp đành phải ngồi vào bàn đàm phán tại hội nghị Paris về Đông Dương, công nhận nền độc lập của 3 xứ Đông Dương, rút quân trong 2 năm, ấn định tổ chức tổng tuyển cử thống nhất Việt Nam vào năm 1956.
Tướng Pháp Charles Chanson mở tiệc "gắn lon" cho các sĩ quan ngụy ở một con tàu trên sông Hậu.
Tướng Pháp Charles Chanson mở tiệc "gắn lon" cho các sĩ quan ngụy ở một con tàu trên sông Hậu.

Một người Mỹ từng hướng dẫn Đại tướng Võ Nguyên Giáp dùng vũ khí



Cách đây 70 năm, một người Mỹ từng hướng dẫn Đại tướng Võ Nguyên Giáp cách ném lựu đạn để chống lại kẻ thù xâm lăng. Báo Telegram (Mỹ) đã có bài viết về nhân vật “đặc biệt” này.

Tháng 7.1945, ông Henry A.Prunier cùng 6 người Mỹ khác nhảy dù xuống một ngôi làng cách thủ đô Hà Nội khoảng 120km về phía tây bắc để thực hiện một nhiệm vụ bí mật là hướng dẫn cho 200 du kích Việt Minh cách sử dụng các vũ khí Mỹ tân tiến tại căn cứ của họ ở trong rừng. Những người lính Mỹ này là thành viên của Cơ quan các dịch vụ chiến lược (OSS) – một cơ quan tình báo của Mỹ vào thời Thế chiến II.
Ông Henry A.Prunier.
Ông Henry A.Prunier.
OSS muốn có được sự giúp đỡ của Việt Minh để chống lại quân đội Nhật Bản, khi đó đang chiếm đóng vùng Đông Dương, ngược lại Việt Minh lại muốn giành được độc lập cho Việt Nam. Nhóm của ông Henry A.Prunier được đặt tên là Deer Team (Đội Hươu) được chỉ định ở lại Việt Nam trong vòng 2 tháng.
Ông Prunier khi đó mới 23 tuổi, được tuyển dụng vào quân đội Mỹ với tư cách là thông dịch viên. Công việc đầu tiên của Prunier tại Việt Nam là giới thiệu cho một người Việt Nam bé nhỏ có tên gọi là Van cách sử dụng súng trường, súng máy, súng badôca và các loại vũ khí khác của Mỹ. Van – người thường mặc bộ trang phục vải linen trắng, đi giày đen và đội mũ phớt mềm màu đen – thực chất là Đại tướng Võ Nguyên Giáp – người 9 năm sau đã dẫn đầu lực lượng quân đội Bắc Việt Nam giành chiến thắng vang dội tại chiến trường Điện Biên Phủ, đuổi quân đội Pháp ra khỏi Việt Nam và sau đó còn dồn quân đội Mỹ vào thế bế tắc.
“Ông Giáp muốn biết tại sao chúng tôi lại tung bổng quả lựu đạn lên và cái gì đã kích hoạt súng cối” – ông Prunier trả lời phỏng vấn của báo Worcester Telegram & Gazette vào năm 2011. Ông Prunier còn kể lại rằng có lần, tướng Giáp còn cúi đầu xuống để nhìn hẳn vào thùng đạn súng cối. “Lúc đó, tôi bị sốc vì sự dũng cảm của ông ấy” – ông Prunier nói.
Khi nhảy dù xuống Việt Nam, ông Prunier đáp ngay phải một ruộng lúa trong khi những người khác mắc trên các cành cây. Họ được Việt Minh giải cứu và đưa tới một chiếc lều tre. Ở đó, họ đã gặp lãnh đạo Hồ Chí Minh. “Ông ấy tự giới thiệu là C.M.Hoo” – ông Prunier kể lại. Khi Chủ tịch Hồ Chí Minh biết ông Prunier đến từ Massachusetts, Chủ tịch đã kể cho ông Prunier rất nhiều câu chuyện thú vị về việc mình đã từng đặt chân đến Boston.
Trong thời gian Đội Hươu ở cùng Việt Minh, quân Nhật Bản đã đầu hàng và Việt Minh đưa ra Tuyên ngôn độc lập. Sau đó, Bác Hồ đưa cho những người lính Mỹ trên một bức thư để chuyển tới Tổng thống Mỹ thời đó là Harry S.Truman, để yêu cầu Mỹ hỗ trợ Việt Minh chống Pháp. Tuy nhiên, ông Truman không bao giờ phản hồi bức thư đó, vì Mỹ đã hậu thuẫn Pháp. Nhiều chuyên gia nghiên cứu lịch sử cho rằng, bằng việc từ chối yêu cầu này của Bác Hồ, nước Mỹ đã bỏ qua cơ hội xây dựng quan hệ tốt đẹp với miền Bắc Việt Nam và từ đó có thể tránh khỏi cuộc chiến tranh 2 thập kỷ sau đó.
Ông Prunier cho biết trong thời gian đó, đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng cho một chiếc thảm thêu làm kỷ niệm và kỷ vật này sau đó được ông Prunier bày tại nhà riêng ở Mỹ.
Năm 1995, ông Prunier trở lại Việt Nam và gặp lại những người lính Việt Minh năm xưa còn sống. Khi nhìn thấy ông Prunier, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã nhận ngay ra. Ông cầm một quả cam theo cách cầm lựu đạn mà ông Prunier từng chỉ cho ông và kêu lên phấn khích “Như thế, như thế, như thế”.
Sau khi hoàn thành nhiệm vụ tại Việt N

Thứ Bảy, 27 tháng 4, 2013

Sự thật về người lính “Đặc nhiệm Mỹ sống 45 năm ở Việt Nam”



Trưa 27/4, sau khi đăng bài xung quanh câu chuyện khó tin ‘đặc nhiệm Mỹ sống 45 năm ở VN’, PV Tiền Phong tiếp tục xác minh các nguồn tin chính thức từ các cơ quan, tổ chức của Mỹ.


Sau khi được trực tiếp tiếp cận nhiều đoạn trong bộ phim tài liệu Unclaimed (Không đòi hỏi) của nhà làm phim Michael Jorgensen bắt đầu khởi chiếu chính thức từ ngày 30/4 ở Mỹ và Canada như báo chí hai nước này đã đưa tin, PV Tiền Phong nhận thấy nhiều chi tiết chưa có bằng chứng xác thực, mặc dù đạo diễn đã cố tình chứng tỏ điều đó.
Người đàn ông Pháp (trái) tự nhận mình là cựu binh Robertson?.
Hình ảnh về cựu binh Robertson trong phim không rõ ràng và báo chí Mỹ, Canada cũng chưa được cung cấp hình ảnh chính thức nào về Robertson và cuộc sống của ông hiện nay ở Việt Nam nếu nhân vật này có thật.
Mặc dù đang trong kỳ nghỉ cuối tuần, nhưng thông tin ban đầu cho biết nhiều khả năng chính nhà làm phim Michael Jorgensen cũng bị lừa hoặc “cố tình” (?) và các đầu mối thông tin từ Việt Nam đều cho thấy việc một cựu binh Mỹ trong chiến tranh Việt Nam tưởng đã chết, nhưng đang sống ở vùng núi miền Bắc Việt Nam mà không ai biết trong chừng ấy năm là không tưởng.
Cựu binh Robertson năm 1966 được xác nhận là đã chết năm 1968 sau khi máy bay bị bắn rơi.
Hoạt động tìm kiếm hài cốt người Mỹ mất tích trong chiến tranh ở Việt Nam là hoạt động nhân đạo giữa hai Chính phủ Việt Nam và Hoa Kỳ. Đại diện Chính phủ Hoa Kỳ nhiều lần cảm ơn và đánh giá cao chính sách nhân đạo, thiện chí và sự hợp tác tích cực, sự giúp đỡ ngày càng hiệu quả của Chính phủ và nhân dân Việt Nam trong hoạt động tìm kiếm người Mỹ mất tích trong chiến tranh ở Việt Nam. Quan chức cấp cao Việt Nam cũng luôn khẳng định chính sách nhất quán của Chính phủ Việt Nam trong vấn đề tìm kiếm người Mỹ mất tích trong chiến tranh và Việt Nam tiếp tục hợp tác với phía Hoa Kỳ trong nỗ lực tìm kiếm.
Một số cựu binh Mỹ đang làm việc ở Việt Nam cũng cho rằng việc tìm kiếm người Mỹ mất tích trong chiến tranh Việt Nam luôn là ưu tiên hàng đầu giữa hai nhà nước Việt Nam và Hoa Kỳ nên việc một cựu binh Mỹ sống suốt 45 ở vùng núi Việt Nam mà không ai biết là không có cơ sở.
Đại diện Đại sứ quán Mỹ tại Việt Nam cho biết, đây là chuyện không đáng tin và sau kỳ nghỉ sẽ có Thông cáo báo chí chính thức về sự việc này.
Trên các diễn đàn mạng của cựu binh Mỹ trong chiến tranh Việt Nam, câu chuyện về cựu binh Robertson từng được bàn tán khá nhiều. Trên trang http://www.macvsog.cc, một số cựu binh khẳng định thông tin về cựu binh Robertson, tử nạn do máy bay bị bắn rơi ở biên giới Lào năm 1968, hiện còn sống là không đúng sự thật.
Người được cho là cựu binh Robertson vẫn còn sống thực ra là một người Pháp lấy vợ Việt Nam tại Cămpuchia (bìa trái).
Bức ảnh chụp cựu binh Robertson thực ra là một người Pháp sống nhiều năm ở Cămpuchia, lấy vợ Việt Nam và có vài người con. Cũng theo thông tin trên trang http://www.macvsog.cc, chính người đàn ông Pháp này đã cố tình lừa cựu binh Tom Faunce, và ông này đã đến kể câu chuyện (bị lừa) với nhà làm phim Jorgensen.
Trên diễn đàn của trang military.com, các cựu binh Mỹ cũng đưa ra nhiều dẫn chứng cho biết đây là câu chuyện không có thật và người tự nhận mình là cựu binh Robertson thực ra là một người Pháp có vợ Việt Nam.
Đây là những thông tin ban đầu mà PV Tiền Phong xác minh được, thông tin chính thức sẽ được Đại sứ quán Mỹ, một số tổ chức cựu binh Mỹ tại Việt Nam… cung cấp trong thời gian tới.
Các tài liệu cho biết cựu binh Robertson cùng phi công Việt Nam và một vài người khác có mặt trên chiếc trực thăng King Bee CH34 cất cánh từ sân bay Phú Bài đã bị trúng đạn và lao thẳng xuống rừng cây ở thung lũng A Shau (Lào) ngày 20/5/1968 và được xác nhận đã chết.
(BTP)

Lỗ hổng thời gian’ và những vụ mất tích bí ẩn



Thuyền trưởng Smith của tàu Titanic.
Ảnh: Sức Khỏe & Đời Sống.
Giới học giả chuyên nghiên cứu bí ẩn siêu nhiên ở châu Âu và Mỹ gần đây xôn xao về một số vụ mất tích - tái hiện một cách thần bí. Nhiều người cho rằng hiện tượng có liên quan đến “lỗ hổng thời gian”.
Ngày 14/4/1912, con tàu thủy siêu cấp Titanic trong chuyến đi đầu tiên đã gặp nạn do va phải băng, khiến 1.500 người mất tích. Vậy mà vào giữa năm 1990 và 1991, tại khu vực gần núi băng Bắc Đại Tây Dương, người ta đã phát hiện và cứu sống hai nhân vật đã biến mất cùng con tàu Titanic gần 80 năm về trước.
Ngày 24/9/1990, con tàu Foshogen đang đi trên vùng biển Bắc Đại Tây Dương. Thuyền trưởng Karl đột nhiên phát hiện một bóng người từ vách núi. Qua kính viễn vọng, ông nhìn rõ một phụ nữ đang dùng tay ra hiệu cấp cứu. Người phụ nữ này mặc trang phục quý tộc Anh thời kỳ đầu thế kỷ 20, toàn thân ướt sũng và rét run cầm cập.

Phát hiện chấn động: Đặc nhiệm Mỹ sống 45 năm ở vùng núi Việt Nam?



Nước Mỹ đang bị sốc trước thông tin cựu binh Mỹ trong chiến tranh Việt Nam John Hartley Robertson, người được cho là đã chết năm 1968, vừa được phát hiện vẫn sống ở vùng núi miền Bắc Việt Nam.
Bộ phim tài liệu Unclaimed (Không đòi hỏi) của nhà làm phim nổi tiếng Michael Jorgensen chính thức công chiếu từ ngày 30/4 tại Mỹ và Canada, nhưng trong những ngày qua đã bắt đầu gây sốc.
John Hartley Robertson, ảnh chụp năm 1966.
John Hartley Robertson, ảnh chụp năm 1966.
Theo thông tin trên báo chí Mỹ, Canada, nhà làm phim Michael Jorgenson phát hiện cựu binh Robertson, năm nay đã 76 tuổi, đang sống trong một ngôi làng nhỏ ở vùng núi phía Bắc Việt Nam. Robertson sinh tại Alabama, gia nhập lực lượng Mũ nồi xanh Mỹ và máy bay của anh bị bắn rơi tại vùng biên giới Lào năm 1968. Theo nhà làm phim Jorgenson và các đoạn phim rò rỉ với báo chí, cựu binh Robertson do sống quá lâu ở vùng núi Việt Nam nên không thể nói được tiếng Anh, nhưng vẫn nhớ ngày sinh của mình, nhớ tên vợ con mình ở Mỹ.
Trong phim, cựu binh Robertson cho biết ông bị bộ đội Việt Nam bắt giữ sau khi máy bay rơi, rồi được trả tự do và kết hôn, có con với nữ y tá người Việt đã chăm sóc mình.
Chuyện khó tin
Bộ phim tài liệu Unclaimed bắt đầu với câu chuyện một cựu binh Mỹ trong chiến tranh Việt Nam là Tom Faunce, trong chuyến cứu trợ thiên tai tới Đông Nam Á cách đây nhiều năm (2008) đã tình cờ phát hiện ra Robertson.
Lính Mỹ trong một chiến dịch trong chiến tranh Việt Nam.
Lính Mỹ trong một chiến dịch trong chiến tranh Việt Nam.
Phát biểu trên báo chí Canada, nhà làm phim Jorgenson thừa nhận chính mình cũng hoài nghi khi cựu binh Tom Faunce năm 2012 tìm đến gặp mình và kể câu chuyện tình cờ gặp một cựu binh Mỹ khác tưởng đã chết, nhưng hiện vẫn còn sống ở Việt Nam là Robertson.
Tuy nhiên, nhà làm phim này đã tin sau khi trực tiếp sang Việt Nam để gặp người được cho là cựu binh Robertson và hi vọng có thể giúp Robertson tái ngộ với gia đình mình tại Mỹ.
Nhà làm phim cũng đã liên hệ với Đại sứ quán Mỹ tại Việt Nam, quân đội Mỹ, người thân của cựu binh Robertson tại Mỹ. Tuy nhiên, bằng chứng đáng tin cậy nhất là xét nghiệm DNA với con của Robertson thì vẫn chưa thực hiện được.
Theo cựu binh Tom Faunce, Robertson năm 2010 đã được lấy dấu vân tay tại Đại sứ quán Mỹ, nhưng điều này chưa đủ để chứng minh người này là John Hartley Robertson và cũng không thể bác bỏ.
Bộ phim tài liệu cung cấp những thước phim xúc động về nơi sinh của Robertson, cảnh một người lính Mỹ từng được Robertson huấn luyện năm 1960 vừa gặp lại ông tại Việt Nam và khẳng định đây đích thị là Robertson. Phim cũng chiếu cảnh về cuộc gặp đầy nước mắt giữa người chị gái duy nhất còn sống của Robertson là bà Jean Robertson-Holly, 80 tuổi. Cuộc hội ngộ diễn ra tháng 12/2012.
“Bà Jean nói … ‘Không có thắc mắc nào. Tôi chắc chắn đó là nó trên video, khi tôi ôm ghì đầu nó và nhìn vào mắt nó tôi không còn nghi ngờ gì về việc nó là em trai mình”, đạo diễn Jorgensen kể với báo chí.
Lính Mỹ trong chiến tranh Việt Nam
Lính Mỹ trong chiến tranh Việt Nam
Kiểm chứng
Cũng theo đạo diễn việc xét nghiệm DNA giữa Robertson với bà Jean là không cần thiết vì bà khẳng định chắc chắn đó là em trai mình. Việc xét nghiệm DNA của Robertson với vợ và hai con ở Mỹ đã được đề nghị. Vợ con của Robertson đã đồng ý nhưng gần đây lại đột nhiên từ chối. Theo giải thích của nhà làm phim thì do ám ảnh chiến tranh và sự việc trôi qua quá lâu có thể hai con gái của Robertson nhất thời chưa muốn biết về người cha của mình.
Hugh Tran, sỹ quan cấp cao cảnh sát Mỹ gốc Việt ở Edmonton, đã tháp tùng nhà làm phim Jorgensen và cựu binh Tom Faunce sang Việt Nam gặp cựu binh Robertson để làm phiên dịch. Theo Hugh Tran, cựu binh Robertson nói giọng như một người Việt bản địa, không có dấu hiệu nào của một người Mỹ qua giọng nói. “Để nói với các bạn sự thật, sau khi tôi phỏng vấn ông ấy lần đầu tiên, tôi tin tới 90% rằng ông ấy là cựu binh Mỹ mất tích trong chiến tranh Việt Nam”, ông Tran chia sẻ. Tuy nhiên, ông Tran thừa nhận mình vẫn còn một chút hoài nghi.
Theo bộ phim, cựu binh Robertson đang sống ở Việt Nam và không muốn rời đi, ông chỉ có một ước nguyện được gặp gia đình Mỹ một lần trước khi chết.
(BTP)

Thứ Ba, 23 tháng 4, 2013

Báo HongKong: Các láng giềng chẳng còn ai tin Trung Quốc



(04:39 23/04/2013) Mặc dù Trung Quốc không ngừng khẳng định nước này lớn mạnh một cách hòa bình, sự thiếu tin tưởng vào ý đồ của Bắc Kinh đã đẩy các nước láng giềng của nước này tới một con đường chung, bài viết trên tờ Bưu điện Hoa Nam buổi sáng (HongKong) bình luận.


Các nước láng giềng của Trung Quốc đã kín đáo nhưng cũng rất tích cực hợp tác để giải quyết những thách thức từ sự vươn lên của “người khổng lồ châu Á” này. Điều đó được thể hiện qua việc không chỉ một quốc gia láng giềng nào đó của Trung Quốc tiến gần hơn với nước Mỹ mà còn thể hiện ở chỗ các quốc gia láng giềng lớn nhỏ quanh Trung Quốc bất chợt nhận ra lợi ích chung mặc dù chính họ vẫn chưa hết e dè với nhau.
Quân đội Mỹ và Philippines tập trận chung.

Sự e dè có vẻ đã được xóa bỏ khi có thông tin từ Tokyo rằng vào tháng tới, các quan chức Nhật Bản và Việt Nam sẽ nhóm họp tại Hà Nội để chính thức thảo luận về vấn đề an ninh hàng hải.

Theo dự đoán của Bưu điện Hoa Nam buổi sáng, chương trình nghị sự giữa hai bên không chỉ là về vấn đề Nhật Bản sẽ giúp Việt Nam phát triển năng lực canh gác bờ biển và giám sát hàng hải ra sao mà còn về việc chia sẻ kinh nghiệm xử lí với các hành động của một Trung Quốc “hung hăng” trên biển.

Bưu điện Hoa Nam buổi sáng cũng cho biết, Tokyo đã liên lạc với Manila để tiến hành một chương trình làm việc giống như với Hà Nội và bản thân Philippines cũng đang tìm đến với Việt Nam. Indonesia cũng tỏ ra tích cực hợp tác về vấn đề hàng hải vượt ra ngoài khung hành động của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN).

Trước đây Philippines và Việt Nam không “thân thiết” lắm với nhau nhưng các cuộc tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc đã đẩy hai nước xích lại gần nhau.

“Chúng tôi ghi chép và đề ra chiến lược đối phó với Trung Quốc. Việt Nam dần cởi mở hơn và mối quan hệ song phương đang ngày càng mạnh mẽ hơn”, một quan chức Philippines cho biết.

Tiếp theo là mối quan hệ Mỹ - Việt, hai quốc gia một thời là kẻ thù của nhau. Có vẻ như lúc này Washington và Hà Nội đã âm thầm khởi động lại các cuộc đàm phán về mối quan hệ chiến lược trong tương lai mà trước đây bị đình hoãn.

Học giả Carl Thayer cho biết vừa qua Việt Nam đã tham gia vào lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc nhằm làm hài lòng Washington. Trong khi đó, Việt Nam không chỉ háo hức chờ đón chuyến thăm của Ngoại trưởng Mỹ John Kerry – một cựu chiến binh trong chiến tranh Việt Nam - mà cả chuyến thăm của Tổng thống Mỹ Barack Obama.

Trung Quốc có thể ra sức biện hộ rằng nước này lớn mạnh một cách hòa bình nhưng hành động của các nước láng giềng lại cho thấy Bắc Kinh vẫn không được tin tưởng. Tương lai của khu vực ra sao tùy thuộc vào khoảng cách niềm tin giữa Trung Quốc với các nước láng giềng được thu hẹp như thế nào.